Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là phương tiện thanh toán chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng ngày càng phát triển tại các ngân hàng thương mại. Thực tế số lượng các giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng đã tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây. Mặc dù vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng chưa được quan tâm xây dựng và ban hành xứng với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, kỹ thuật áp dụng tương đối phức tạp, các bên tham gia lại thiếu hiểu biết nên tranh chấp liên quan đến thư tín dụng vẫn thường xảy ra. Vì vậy, nghiên cứu “pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng, những vấn đề thực tiễn phát sinh” việc làm cần thiết để từng bước hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động này
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2229 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng, những vấn đề thực tiễn phát sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là phương tiện thanh toán chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng ngày càng phát triển tại các ngân hàng thương mại. Thực tế số lượng các giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng đã tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây. Mặc dù vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng chưa được quan tâm xây dựng và ban hành xứng với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, kỹ thuật áp dụng tương đối phức tạp, các bên tham gia lại thiếu hiểu biết nên tranh chấp liên quan đến thư tín dụng vẫn thường xảy ra. Vì vậy, nghiên cứu “pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng, những vấn đề thực tiễn phát sinh” việc làm cần thiết để từng bước hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động này.
NỘI DUNG
I. Khái quát về thư tín dụng
1. Khái niệm
Theo quy định tại Điều 16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 26/3/2002 về việc ban hành Quy chế thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để:
- Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng; hoặc
Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.
Đây là định nghĩa trực tiếp về thư tín dụng duy nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đã phản ánh được bản chất của thư tín dụng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng, được phát hành theo lệnh của người mua cho người bán hưởng và thể hiện được hai phương thức thanh toán trả ngay và trả chậm.
2. Đặc điểm
- Thư tín dụng độc lập với hợp đồng mua bán.
Thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán bởi người yêu cầu mở thư tín dụng phải dựa vào hợp đồng mua bán đã ký để viết yêu cầu mở thư tín dụng. Nhưng sau khi được thiết lập, thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập so với hợp đồng mua bán. Trong quá trình thực hiện thư tín dụng, ngân hàng không có nghĩa vụ phải xem xét việc thực hiện hợp đồng mua bán mà chỉ căn cứ vào việc kiểm tra bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản của thư tín dụng.
- Thư tín dụng là cam kết độc lập của ngân hàng về việc trả tiền cho người thụ hưởng.
Nghĩa vụ trả tiền cho người thụ hưởng là nghĩa vụ bắt buộc của ngân hàng và ngân hàng là người trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng. Cam kết trả tiền của ngân hàng không liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng.
- Thư tín dụng là kết quả của hợp đồng dịch vụ giữa người yêu cầu mở thư tín dụng và ngân hàng phát hành, theo đó ngân hàng phát hành có nghĩa vụ mở thư tín dụng còn người yêu cầu có nghĩa vụ thanh toán phí mở thư tín dụng.
- Nội dung thư tín dụng gồm rất nhiều điều khoản như: số hiệu, địa điểm, tên, địa chỉ của người có liên quan, số tiền của thư tín dụng, thời hạn hiệu lực, thòi hạn trả tiền, thời hạn giao hàng, nội dung về hàng hóa, vận tải, giao nhận, những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình…Những điều khoản này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên vì nó thể hiện rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia. Đây là đặc điểm mà các phương tiện thanh toán khác không có được. Giao dịch thương mại giữa các bên không có sự tin tưởng trước thì thư tín dụng rất thích hợp để sử dụng.
- Thư tín dụng là công cụ thanh toán có khả năng hạn chế rủi ro.
Thư tín dụng đáp ứng được yêu cầu hiệu quả và giảm thiểu rủi ro khi mà khả năng thanh toán đã được đảm bảo bởi ngân hàng thông qua việc mở thư tín dụng không hủy ngang. Người bán không còn lo ngại về khả năng của người mua trong việc thanh toán.
2. Phân loại
- Theo hiệu lực cam kết của ngân hàng, thư tín dụng có thể được phân chia thành:
+ Thư tín dụng có thể hủy ngang
+ Thư tín dụng không thể hủy ngang
- Căn cứ theo cách thức thực hiện đặc biệt:
+ Thư tín dụng chuyển nhượng
+ Thư tín dụng giáp lưng
+ Thư tín dụng tuần hoàn
+ Thư tín dụng đối ứng
+ Thư tín dụng điều khoản đỏ
+ Thư tín dụng dự phòng
- Căn cứ vào thời hạn thanh toán của thư tín dụng:
+ Thư tín dụng trả ngay
+ Thư tín dụng trả chậm
- Căn cứ vào phạm vi thực hiện:
+ Thư tín dụng thanh toán quốc tế
+ Thư tín dụng thanh toán nội địa
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
1. Tập quán quốc tế và mối quan hệ với pháp luật Việt Nam
Tập quán quốc tế
Hiện nay, trong quan hệ thương mại quốc tế chưa có điều ước quốc tế nào điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng. Việc mở, thực hiện và giải quyết tranh chấp liên quan đến thư tín dụng chủ yếu được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế, cụ thể “Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (UCP) do Phòng thương mại Quốc tế (ICC) soạn thảo và ban hành. UCP là tập hợp các tập quán và thông lệ quốc tế điều chỉnh việc thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Lần đầu tiên ICC soạn thảo các quy tắc hướng dẫn thực hiện thanh toán quốc tế ở phương thức tín dụng chứng từ vào năm 1922 nhưng nó không mang tính quy tắc thống nhất và chỉ được áp dụng hạn chế ở một số ngân hàng châu Âu. Năm 1933, ICC thông qua Quy tắc thực hành thống nhất thư tín dụng chứng từ thương mại. Đây là bản UCP đầu tiên. Từ đó đến nay, UCP đã trải qua 6 lần sửa đổi vào các năm 1951, 1964, 1974, 1983, 1993 và lần gần đây nhất là năm 2007. Các bản UCP ra đời sau không hủy bỏ bản UCP ra đời trước đó. Áp dụng văn bản nào là do các bên quyết định và nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư tín dụng là áp dụng UCP số hiệu nào. Điều 1 UCP 600 chỉ ra phạm vi áp dụng: “Các quy tắc thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ, bản sửa đổi 2007, ICC xuất bản số 600 là quy tắc áp dụng cho bất kỳ tín dụng chứng từ nào bao gồm cả thư tín dụng dự phòng trong chừng mực mà các quy tắc này có thể áp dụng nếu nội dung của tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng nó phụ thuộc vào các quy tắc này. Các quy tắc này ràng buộc tất cả các bên, trừ khi tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ ràng”.
Như vậy, UCP 600 không được tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng mà có giá trị pháp lý tùy nghi. UCP chỉ có hiệu lực khi trong hợp đồng dẫn chiếu áp dụng rõ ràng. Và khi hợp đồng có dẫn chiếu áp dụng thì UCP lại trở thành văn bản pháp lý có tính chất bắt buộc thực hiện. UCP chỉ áp dụng trong thanh toán quốc tế, không áp dụng trong thanh toán nội địa.
Ngoài UCP, các văn bản sau đây cũng có giá trị hiệu lực điều chỉnh các hoạt động thanh toán qua thư tín dụng:
- URR.525.1995 ICC: Quy tắc thống nhất hoàn trả tiền theo thư tín dụng.
- ISP98: Quy tắc quốc tế về tín dụng dự phòng năm 1998.
- eUCP 1.1: Bản phụ trương UCP 600 về việc xuất trình chứng từ điện tử - bản diễn giải số 1.1 năm 2007.
- ISBP681.2007 ICC: Thanh toán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng – số 681 của ICC tuân thủ UCP 600 năm 2007.
Mối quan hệ giữa tập quán quốc tế về hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng với pháp luật Việt Nam
UCP là tập quán áp dụng toàn cầu, luật quốc gia chỉ có giá trị hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Ở nước ta, pháp luật thừa nhận việc áp dụng quy định của thông lệ và tập quán quốc tế trong lĩnh vực thư tín dụng.
Khoản 4 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao gồm: a. Tập quán thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế ban hành; b. Tập quán thương mại khác không trái với pháp luật của Việt Nam”.
Điều 4 Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN về ban hành Quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm quy định: “Việc mở L/C trả chậm để nhập khẩu hàng hóa phải phù hợp với: 1. Chính sách nhập khẩu của nhà nước; 2. Các quy định hiện hành của nhà nước liên quan đến vay, trả nợ nước ngoài, bảo đảm tiền vay và các quy định tại quy chế này; 3. Quy chế thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của Phòng thương mại Quốc tế (theo phiên bản mà ngân hàng lựa chọn)”.
Điều 19 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 về ban hành Quy chế thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: “Thanh toán bằng thư tín dụng: việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền, nghĩa vụ… của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng được thực hiện theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành, do các bên tham gia thanh toán thảo thuận áp dụng theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam”.
Căn cứ vào các điều luật trên thì các bên tham gia hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng được phép thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế và pháp luật Việt Nam cùng được sử dụng để điều chỉnh thanh toán bằng thư tín dụng.
Trong trường hợp giữa tập quán quốc tế và pháp luật Việt Nam có sự khác biệt thì pháp luật Việt Nam chiếm ưu thế và phải được tuân thủ. Quan điểm này thể hiện rõ trong tài liệu ICC số xuất bản 511: “Do được dẫn chiếu áp dụng vào thư tín dụng, UCP chi phối giao dịch thư tín dụng là cơ bản nhưng không phải là duy nhất. Tòa án và trọng tài thường vận dụng UCP bởi nó là một tuyển tập các thông lệ và tập quán về thư tín dụng được phổ biến và thông dụng nhất trên toàn thế giới. Nó được hiểu như là một văn bản đạt được sự hoàn hảo gần với một bộ luật quốc tế. Tuy nhiên, sự áp dụng UCP và thư tín dụng không ngăn cản việc tòa án áp dụng pháp luật quốc gia…Quan điểm của ICC là UCP không thể thay đổi được luật quốc gia. Những tranh chấp (nếu có) tốt nhất là để tòa án xem xét và giải quyết”.
Trên thực tế, các ngân hàng được phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế đều vận dụng UCP vào giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng nhằm hòa nhập vào mạng lưới thanh toán toàn cầu.
2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
2.1. Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng.
Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là chủ thể thực hiện thanh toán bằng thự tín dụng, được thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có đủ điều kiện. Điều kiện về chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng được quy định tại Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6 của Quy chế thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tại Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 26/3/2002. Pháp luật hiện hành không cho phép tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế do quy trình thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán bằng thư tín dụng nói riêng rất phức tạp, đòi hỏi chuyên môn nghiệp vụ cao. Trong khi đó, hoạt động thanh toán không phải là hoạt động chính của các tổ chức tín dụng nên mức độ rủi ro cao. Quy định này của pháp luật Việt Nam được coi là hợp lý trong giai đoạn hiện nay.
Ngân hàng là chủ thể chủ yếu thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng. Hiện nay ở nước ta, hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng đều được thực hiện tại các ngân hàng thương mại. Pháp luật quy định điều kiện ngân hàng được phép hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng:
- Có người điều hành, nhân viên am hiểu hoạt động ngoại hối và có khả năng thực hiện tốt hoạt động ngoại hối.
- Có đủ trang thiết bị và điều kiện vật chất để đáp ứng được các hoạt động ngoại hối. Đây là điều kiện rất cần thiết bởi hoạt động ngoại hối là hoạt động mang tính quốc tế, đòi hỏi có sự đồng bộ về kỹ thuật giữa ngân hàng của các nước với nhau.
Đối với các tổ chức không phải là ngân hàng được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Được phép hoạt động ngoại hối theo quy định của pháp luật.
- Dịch vụ thanh toán quốc tế là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động chính.
- Đáp ứng các điều kiện vật chất phù hợp với dịch vụ thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế có liên quan tới các ngân hàng ở nhiều nước khác nhau. Nó chỉ được thực hiện khi giữa các ngân hàng có sự đồng bộ tương đối về kỹ thuật. Hiện nay, để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng các tổ chức không phải ngân hàng cũng như ngân hàng đều phải tham gia mạng thanh toán Swift.
- Có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để quản lý và thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế.
Để thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước, các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng phải đáp ứng những điều kiện:
- Có giấy phép thành lập hoặc giấy phép hoạt động hoặc đăng ký kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
- Có phương án hoạt động thanh toán, trong đó chứng minh:
+ Dịch vụ thanh toán xin phép thực hiện là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động của mình. Đây là quy định cần thiết nhằm đảm bảo hoạt động thanh toán của tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được thực hiện hiệu quả, đúng mục đích.
+ Đáp ứng các điều kiện vật chất phù hợp với dịch vụ tahnh toán xin phép thực hiện.
+ Có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để quản lý và thực hiện dịch vụ thanh toán xin phép thực hiện.
Hiện nay, pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về điều kiện cho các chủ thể thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng. Những quy định trên quy định chung về điều kiện để chủ thể thực hiện thanh toán quốc tế. Tuy còn chung chung nhưng đã góp phần đảm bảo hoạt động thanh toán lành mạnh, hạn chế rủi ro.
Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là tổ chức, cá nhân bao gồm: người yêu cầu mở thư tín dụng và người thụ hưởng. Thông qua quy định về thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng tại Điều 7 Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 8/12/2002, điều kiện đối với chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng được xác định:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng: là người mua hoặc nhà nhập khẩu, là bên mà theo yêu cầu của bên đó, thư tín dụng được phát hành. Khi sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng, người yêu cầu mở thư tín dụng cần đáp ứng điều kiện:
+ Mở tài khoản tại ngân hàng được lựa chọn.
+ Có giấy đề nghị mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng.
- Người thụ hưởng: là người bán, người xuất khẩu, là bên mà vì quyền lợi của bên đó, một thư tín dụng được phát hành . Để được ngân hàng thanh toán, bên thụ hưởng phải đáp ứng điều kiện:
+ Mở tài khoản tại ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở thư tín dụng.
+ Nếu người thụ hưởng mở tài khoản tại ngân hàng khác hệ thống thì trên địa bàn đó phải có ngân hàng cùng hệ thống hoạt động và các ngân hàng này có tham gia thanh toán bù trừ với nhau.
Đặc biệt, để được sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng trong thanh toán quốc tế, người yêu cầu mở thư tín dụng phải đáp ứng những điều kiện:
+ Có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nếu không có giấy phép này thì đơn vị đó phải ủy thác việc mở thư tín dụng qua đơn vị khác.
+ Có giấy phép nhập khẩu hàng hóa.
Điều kiện chung đối với chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong thanh toán bằng thư tín dụng
Hiện nay ở nước ta vấn đề này chưa được quy định cụ thể mà chỉ dừng lại ở chỗ quy định chung về quyền và nghĩa vụ các bên trong thanh toán tại Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN.
* Quyền và nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán :
- Quyền: + Quy định phí dịch vụ thanh toán đối với dịch vụ thanh toán mà mình cung cấp, các biện pháp bảo mật, phòng chống gian lận đảm bảo an toàn trong thanh toán, đóng tài khoản khi tài khoản không hoạt động trong thời hạn dài và số dư thấp dưới mức quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, quy định về hạn mức thấu chi và các quy định khác không trái pháp luật.
+ Yêu cầu người sử dụng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin có liên quan khi sử dụng dịch vụ thanh toán và trong quá trình sử dụng dịch vụ thanh toán.
+ Từ chối cung cấp dịch vụ thanh toán khi người sử dụng dịch vụ thanh toán không tuân thủ quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc vi phạm các thảo thuận khác.
- Nghĩa vụ: + Thực hiện giao dịch thanh toán kịp thời, an toàn theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán, niêm yết công khai về phí dịch vụ, giữ bí mật các thông tin liên quan đến tài khoản thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh toán, trừ các trường hợp được pháp luật quy định, giải quyết hoặc trả lời khiếu nại của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong phạm vi quyề hạn của mình.
+ Từ chối thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp.
+ Không được che giấu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về người sử dụng dịch vụ thanh toán, số tiền thanh toán và các thông tin có liên quan khác đối với các giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp.
+ Cung cấp thông tin cho chủ tài khoản, báo cáo Ngân hàng Nhà nước theo quy định.
* Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ thanh toán:
- Quyền: + Thỏa thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán về hạn mức thấu chi và các thảo thuận khác không trái luật.
+ Yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật.
+ Khiếu nại, đòi bồi thường thiệt hại khi tổ chức cung ứng dịch vụ: thực hiện giao dịch thanh toán chậm so với thỏa thuận, không thực hiện giao dịch thanh toán hoặc thực hiện giao dịch thanh toán không đúng số tiền, không đúng người thụ hưởng theo yêu cầu của lệnh thanh toán đó; thu phí dịch vụ vi phạm phí đã công bố.
- Nghĩa vụ: + Trả phí dịch vụ thanh toán cho tổ chức thanh toán; hoàn trả đầy đủ, đúng hạn số tiền thấu chi trên tài khoản thanh toán (nếu có thỏa thuận) và tiền lãi tính trên số tiền thấu chi đó theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ và thực hiện đầy đủ các quy định khác của tổ chức cung ứng dịch vụ.
+ Hoàn trả tổ chức cung ứng dịch vụ trong trường hợp thụ hưởng số tiền không có căn cứ pháp luật thông qua giao dịch thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thực hiện.
Những quy định trên chỉ là những quy định chung được áp dụng cho tất cả các phương thức thanh toán. Trong khi đó, thanh toán bằng thư tín dụng có nhiều điểm khác biệt, đặc thù so với các phương thức thanh toán khác. Nếu so với các quy định trong UCP thì những quy định này còn sơ cài. Trong thực tiễn thanh toán bằng thư tín dụng, quyền và nghĩa vụ của các bên được điều chỉnh bởi UCP nếu các bên thỏa thuận áp dụng UCP. UCP 600 là bản sửa đổi mới nhất, phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên tham gia:
- Quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu mở thư tín dụng: Có quyền lựa chọn ngân hàng cung ứng dịch vụ, đưa ra các chỉ thị nhằm xác lập thư tín dụng, có quyền nhận, kiểm tra và chấp nhận bộ chứng từ theo yêu cầu trong thư tín dụng; có quyền đề nghị ngân hàng phát hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ thư tín dụng; có quyền từ chối thanh toán nếu phát hiện bộ chứng từ không phù hợp với điều kiện của thư tín dụng. Người yêu cầu mở thư tín dụng có nghĩa vụ ký quỹ, trả dịch vụ cho ngân hàng, áp dụng một hoặc nhiều biện pháp bảo đảm: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ký quỹ.
- Quyền và nghĩa vụ của người thụ hưởng: quyền cơ bản là được thanh toán khi xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Người thụ hưởng có nghĩa vụ kiểm tra thư tín dụng, lập bộ chứng từ thanh toán phù hợp với quy định của thư tín dụng và xuất trình tới ngân hàng được chỉ định trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Tùy theo quy định trong thư tín dụng, người thụ hưởng có thể phải trả một khoản phí cho ngân hàng.
- Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng phát hành:
+ Phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu và thông qua ngân hàng đại lý ở nước người hưởng lợi thông báo, gửi bản gốc thư tín dụng cho người thụ hưởng.
+ Đồng ý sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người yêu cầu mở thư tín dụng.
+ Kiểm tra chứng từ của người hưởng lợi thư tín dụng chuyển đến. Nếu các chứng từ phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín dụng thì trả tiền cho người hưởng lợi và đòi tiền nhà nhập khẩu. Nếu các chứng từ xuất trình không