Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai yếu tố luôn đi kèm với nhau. Như bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác, hoạt động ngân hàng là hoạt động luôn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố: môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp lý , chính sách vi mô , vĩ mô Do vậy hoạt động này luôn tiềm ẩn những biến động lớn, đồng nghĩa nguy cơ rủi ro cũng rất cao. Vì vây việc phòng ngừa rủi ro là vấn đề thiết yếu trong hoạt động ngân hàng. Mà trong quản lý xã hội công cụ hiệu quả nhất luôn là công cụ pháp luật, chính vì thế nhóm em xin chọn đề tài : “Pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng”
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai yếu tố luôn đi kèm với nhau. Như bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác, hoạt động ngân hàng là hoạt động luôn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố: môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp lý , chính sách vi mô , vĩ mô…Do vậy hoạt động này luôn tiềm ẩn những biến động lớn, đồng nghĩa nguy cơ rủi ro cũng rất cao. Vì vây việc phòng ngừa rủi ro là vấn đề thiết yếu trong hoạt động ngân hàng. Mà trong quản lý xã hội công cụ hiệu quả nhất luôn là công cụ pháp luật, chính vì thế nhóm em xin chọn đề tài : “Pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
1. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
1.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
Trong lịch sử phát triển của loài nguời, tiền tệ ra đời cùng với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá, với tư cách là vật ngang giá chung trong quá trình trao đổi. Cũng trong quá trình đó, ngân hàng ra đời như một trung gian tài chính, là cầu nối giữa nguời gửi tiền và nguời vay tiền. Cùng với sự phát triển của kinh tế- xã hội, các hoạt động ngân hàng cũng ngày một phát triển và mở rộng. Theo khoản 1 điều 6 Luật Ngân hàng nhà nước 2010 thì “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.” Ta thấy đối tưọng kinh doanh của hoạt động ngân hàng là một loại hàng hoá rất đặc biệt là tiên tệ- một loại hàng hoá có độ nhạy cảm cao với rủi ro. Hơn nữa hoạt động ngân hàng chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố kinh tế, chính trị,,, và mang tính dây chuyền nên mang tính rủ ro rất cao. Rủi ro theo cách hiểu thông thuờng là khả năng xảy ra những tổn thất phát sinh ngoài dự kiến. Theo đó rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra những tổn thất phát sinh ngoài dự kiến trong hoạt động ngân hàng. Những rủi ro thuờng gặp trong lĩnh vực ngân hànglà rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro tỷ suất, rủi ro pháp lý và một số loại rủi ro khác.
1.2. Sự cần thiết của việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh mang tính đặc thù, dó là đi vay để cho vay. Trong khi đó bất kỳ một ngành nào, một lĩnh vực kinh doanh nào, hay một lĩnh vực nào của đời sống kinh tế- xã hội muốn vận hành đựoc đều cần có “ nguồn vốn”- nói cách khác là tiền tệ. Nên họat động ngân hàng có thể được coi là “ máu” của nền kinh tế- xã hội. Vì thế bất kỳ một biến động nào của đời sống kinh tế xã hội cũng có thể ảnh hưỏng tiêu cực đến hoạt động ngân hàng nên tính rủi ro trong hoạt động này là rất cao. Hơn nữa, hiện nay nước ta đang thực hiện cơ chế thị truờng, lại trong bối cảnh toàn cầu hoá thì các nhân tó của nền kinh tế xã hội có sự tác động lẫn nhau ngày càng chặt chẽ và trong phạm vi vuợt qua biên giới cua mỗi nứơc thì những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng ngày một gia tăng.
Những tác động mà rủi ro trong hoạt động ngân hàng là vô cùng lớn. Nó không chỉ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của từng khách hàng, đến sự hoạt động hiệu quả của ngân hàng, hệ thống ngân hàng mà thường mang tính dây chuyền trong cả nền kinh tế. Như đã nói ở trên, bất kỳ một biến động nào của nền kinh tế cũng cvó thể ảnh hưỏng tiêu cực tới hoạt động ngân hàng thì ngược lại, một rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng có thể tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Trong kinh doanh thì rủi ro là vấn đề không thể tránh khỏi. Vì vậy cũng như bất kỳ một loại hình kinh doanh nào khác, trong quá trình kinh doanh việc một hoặc một số ngân hàng lâm vào tình trạngmất khả năng thanh toán và phá sản ngân hàng là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Mà hoạt động ngân hàng là một hoạt động có tính hợp tác cao và thuờng mang tính dây chuyền. Nên vấn đề đặt ra ở đâylà phá sản ngân hàng không chỉ dừng lại ở một ngân hàng yếu kém mà có thể lan truyền sang các ngân hàng khác nếu nguời dân mất lòng tin với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Điều này sẽ làm cho hệ thống ngân hàng sụt giảm nghiêm trọng, đẩy hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng yếu kém tồi tệ. Một hệ quả tất yếu xảy ra nên kinh tế sẽ lâm vào tình trạng suy thoái thậm chí còn ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị của quốc gia.
Có thể nói những rủi ro trong hoật động ngân hàng có tác động rất lớn đền sự tồn tại , phát triển của ngân hàng, của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế- xã hội. Vì vậy việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng bằng pháp luật là vô cùng cần thiết.
1.3.Các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
* Rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụnglà loại rủi ro gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng là hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng là khả năng xảẩin những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủvốn và lãi cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể là phân thành rủi ro mất vốn hoặc rủi ro đọng vốn. Loại rủi ro này không chỉ dừng lại ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động khác như : hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thuơng, cho thuê tài chính. Đây là loại rủi ro cơ bẩn nhất của hoạt động ngân hàng.
Rủi ro lãi suất.
Để huy động vốn của các cá nhân , tổ chức ngân hàng phải trả lãi, khi ngân hàng cho vay hoặc tài trợ thì ngân hàng thu lãi.Cũng như giá của các hàng hoá, dịch vụ khác thì lãi suất của các khoản vay, tiền gửi và chứng khoán cũng thuờng xuyên biến động. Sự biến động đó có thể làm tăng lợi nhuận của các ngân hàng nhưng cũng có thể gây tổn thất cho ngân hàng. Qua đó thì rủi ro lãi suất chính là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến do sự thay đổ lãi suất của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản.
Thanh khoản là khả năng thanh toán của một ngân nhàng thuơng mại trước nhu cầu giải ngân của một hay nhiều khách hàng. Nếu không đáp ứng được nhu cầu này , ngân hàng có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và nguy cơ phá sản có thể xảy ra. Như vậy rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không có đủ nguồn vốnhoặc không thể tìm được nguồn bên ngoài để đầu tư cho hoạt động kinh doanh của mình. Dây là loại rủi ro nguy hiểm nhất trong hoạt động ngân hàng. Bởi lẽ rủi ro thanh khoản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng đó kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Rủi ro tỷ giá.
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt qua sự thay đổi dự tính của ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thuờng xuyên biến động, sự biến động này có thể gây bất lợi cho ngân hàng và dẫn đến rủi ro về tỷ giá cho hoạt động ngân hàng.
Ngoài những loại rủi ro trên thì hoạt động ngân hàng còn có một số loại rủi ro khác như rủi ro hoạt động, , rủi ro pháp lý, rủi ro uy tín, rủi ro công nghệ thông tin….
2. Các quy định pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng:
2.1. Nhóm quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
1. Các quy định của pháp luật về phòng chống rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.1. Nhóm quy định về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
2.1.1. Quy định về đảm bảo các tỷ lệ an toàn:
Theo quy định tại Điều 130, Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì trong quá trình hoạt động, các TCTD phải tuân thủ các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn.
Thứ nhất, TCTD đảm bảo về khả năng chi trả: khả năng chi trả được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “Nợ” phải thanh toán tại một thời điểm nhất định của TCTD. Theo Thông tư 13/2010 thì TCTD phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả đối với từng loại tiền, vàng như sau:
- Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng “Nợ” phải trả.
- Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đô la Mỹ theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày).
Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước cũng quy định rõ thế nào là tài sản “Có” có thể thanh toán ngay như tiền mặt, vàng, tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước, tiền gửi có kỳ hạn tại các TCTD khá đến hạn thanh toán…Tài sản “Nợ” phải thanh toán bao gồm: số chênh lệch lớn hơn giữa tiền gửi nhận của TCTD khác và tiền gửi tại TCTD đó khi đến hạn; 15% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, cá nhân; giá trị các cam kết cho vay của tổ chức tín dụng khi đến hạn thực hiện; tất cả tài sản nợ khác đến hạn phải thanh toán. Cũng tại Thông tư này, NHNN còn quy định TCTD phải xây dựng bảng phân tích các tài sản “Có” có thể thanh toán ngay và các tài sản “Nợ” phải thanh toán đối với từng loại đồng tiền trong các khoảng thời gian: trong ngày hôm sau; từ 2 đến 7 ngày; từ 8 ngày đến 1 tháng; từ 1 đến 3 thánh; từ 3 đến 6 tháng.
Thứ hai, về tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu hay vốn tự có để bù đắp rủi ro trong điều kiện hoạt động bình thường, theo quy định tại Thông tư 13, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản rủi ro. Vốn tự có của TCTD theo quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ của TCTD theo hướng dẫn của NHNN. Và theo hướng dẫn tại thì vốn tự có của TCTD bao gồm hai loạt đó là vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật, trừ đi phần dùng để mua cổ phiếu quỹ (nếu có).; vốn cấp 2 như là 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật; 40% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp luật; Quỹ dự phòng tài chính; Có kỳ hạn ban đầu tối thiểu là 5 năm;…Tuy nhiên, đối với số vốn mà TCTD đầu tư vào TCTD khác dưới hình thức góp vốn mua cổ phần phải được trừ khỏi vốn đầu tự có khi tính tỷ lệ này. Còn tổng tài sản có rủi ro bao gồm giá trị tài sản “Có” của TCTD được tính theo mức độ rủi ro như nhóm các tài sản có độ rủi ro 0%, 20%, 50%, 100%, 150%, 250% và các cam kết ngoại bảng được tính theo mức độ rủi ro bằng cách chuyển đổi thông qua giá trị tài sản “Có” bằng các hệ số chuyển đổi.
Thứ ba, quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Bản chất của hoạt động ngân hàng là đi vay để cho vay, tuy nhiên đối với những khoản tiền gửi tạo ra nguồn vốn tín dụng luôn đặt TCTD vào tình trạng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi, đặc biệt là các khoản tiền gủi không xác định thời hạn. Để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán, xẩy ra rủi ro thanh khoản, pháp luật quy định TCTD không được sử dụng toàn bộ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn mà phải duy trì ở một tỷ lệ nhất định. Theo quy đinh tại Thông tư 15/2009/TT- NHNN thì tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn đối với ngân hàng thương mại, Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính là 30%, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương: 20%.
2.1.2. Quy định về dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của NHNN về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các TCTD bắt buộc phải tuân thủ. Ngoài mục đích thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN đó là để điều tiết tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng cho lưu thông, tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn là quy định mà các TCTD trong hoạt động của mình phải thực hiện để đảm bảo khả ngăn chi trả khi gặp khó khăn trong thanh toán. Theo quy định của NHNN, TCTD phải gửi tại NHNN số tiền gửi theo mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi ở TCTD. Các ngân hàng có thể gửi tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ ngày nhưng không được phép giữ tiền mặt thấp hơn tỷ lệ này.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN quy định đối với từng loại tín dụng, từng loại tiền gửi và từng thời kỳ khác nhau là khác nhau. Tùy thuộc vào mục đích của NHNN ở từng thời kỳ là muốn tăng hay giảm lượng tiền tệ lưu thông. Cụ thể như vào đầu năm 2008, nhằm ổn định thị trường tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN ngày 16/01/2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các TCTD. Theo đó quyết định áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống, theo quyết định này, diện các loại tiền gửi phải dự trữ được mở rộng bao gồm cả loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Quyết định cũng điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% đối với loại tiền gửi. Cụ thể: đối với tiền gửi Việt Nam đồng và tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%. Đến cuối năm 2008 vào tháng 12, NHNN cũng đã có 2 quyết định đó là Quyết định 2952/2008/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008 và quyết định 3158/2008/QĐ-NHNN về điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi Việt Nam đồng của các TCTD theo hướng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đến đầu năm 2009, nhằm ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, NHNN đã tiếp tục điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi của TCTD bằng Quyết định số 378/2009/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009. Theo đó áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho tiền gửi dưới 12 tháng cho tát cả mọi loại hình tín dụng, cụ thể là đối với ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, mức dự trữ bắt buộc là 3% trên số tiền gửi. Đối với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và ngân hàng cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác mức dự trữ bắt buộc là 1%. Còn tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi trên 12 tháng được áp dụng cho mọi loại hình tổ chức tín dụng là 1%.
2.1.3. Quy định về phân loại nợ trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng.
Trong quá trình tiến hành hoạt động của mình, pháp luật quy định các TCTD phải trích lập dự phòng rủi ro để đảm bảo trạng thái ổn định của nguồn vốn tín dụng, khắc phục hậu quả do rủi ro. Theo quy định tại điều 131 Luật các Tổ chức tín dụng thì TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này được hạch toán vào chi phí hoạt động. Trong trường hợp TCTD thu hồi được vốn đã được xử lý bằng khoản dự phòng rủi ro, số tiền thu hồi này được coi là doanh thu của TCTD.
Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro, NHNN đã quy định cụ thể hơn về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 (được sử dụng bổ sung bằng Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007).
Theo quy định này thì tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam trừ chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội, phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
Quyết định đã quy định rõ, dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không được thực hiện nghĩa vụ theo cam kết và nó được tính theo dự nợ gốc và dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Trong đó dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ mà hiện nay TCTD đang thực hiện. Còn dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các TCTD khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
Tỷ lệ dự phòng cụ thể đối với các nhóm: nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn), nhóm 2 (nợ cần chú ý), nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ),nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tương ứng là 0%, 5%, 20%, 50%, 100%. Số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ trích lập dự phòng mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản đảm bảo. Nếu giá trị tài sản đảm bảo được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị các khoản nợ thì số tiền dự phòng bằng không, nghĩa là TCTD trên thực tế không phải trích lập dự phòng cho khoản nợ đó.
Để đảm bảo duy trì mức ổn định cần thiết của dự phòng rủi ro, pháp luật quy định các TCTD phải đảm bảo đúng mức dự phòng rủi ro đã quy định. Việc sử dụng dự phòng rủi ro phải trong phạm vi hiện có và chỉ được sử dụng dự phòng rủi ro trong trường hợp đó là khi khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể phá sản theo quy định của pháp luật, cá nhân chết hoặc bị mất tích và các khoản nợ được xếp loại vào nhóm 5 theo quy định phân loại nợ.
Dự phòng rủi ro rất quan trọng, nó đóng vai trò lớn trong việc tạo an toàn và ổn định cho TCTD qua việc phục hồi những thiệt hại xảy ra do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra. Do đó các TCTD cần phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định này để đảm bảo khắc phục những rủi ro phát sinh.
2.1.4. Các quy định về bảo hiểm tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. Nó có một vị trí quan trọng đối với hoạt động của TCTD. Đây là một trong các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn, phòng chống rủi ro cho hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng. Theo quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng thì TCTD có hoạt động nhận tiền gửi có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi.
Theo các quy định hiện hành thì bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng có nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được bảo hiểm của khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó. Giới hạn số tiền được bảo hiểm là số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc lẫn lãi và một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm thuộc đối tượng gửi tiền được bảo hiểm tối đa là 50 triệu đồng (theo Khoản 3 Điều 1 Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005).
Chủ thể trong quan hệ bảo hiểm tiền gửi bao gồm chủ thể nhận bảo hiểm tiền gửi, người tham gia bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Chủ thể nhận bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Cơ quan này ngoài trách nhiệm thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi cho TCTD nó còn thực hiện một số nhiệm vụ khác như thực hiện giám sát rủi ro, thực hiện các biện pháp hỗ trợ các TCTD khi các tổ chức này gặp khó khăn. Như vậy bảo hiểm tiền gửi đảm bảo cho các đối tượng gửi tiền không gặp rủi ro trong quá trình gửi tiền tại TCTD đồng thời không gây sự đổ vỡ hàng loạt các TCTD khi một TCTD gặp rủi ro và rơi vào tình trạng phá sản.
2.1.5. Các quy định về bảo đảm tiền vay:
Trong hoạt động ngân hàng, khi người vay vốn không trả được nợ cho ngân hàng, TCTD với nguyên nhân khách quan hay chủ quan nào thì mục đích của TCTD đối với khoản cho vay là nhằm thu hồi cả vốn và lãi sau một thời gian cho vay không đạt được. Lúc đó, TCTD sẽ phải đối mặt với những rủi ro phát sinh từ khoản vay đó. Phần vốn của TCTD không thể thu hồi được có thể gây ra rủi ro thanh khoản ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của TCTD, phá sản TCTD có thể xảy ra. Để đảm bảo thu hồi vốn vay đầy đủ khi đến hạn, Luật các Tổ chức tín dụng có quy định “Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp, của khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba…”
Và tại Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 12/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng (hiện nay được thay thế bằng Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch đảm bảo) thì bảo đảm tiền vay là việc các tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã đến hạn cho khách hàng vay. Có thể thấy, bản chất của bảo đảm tiền vay là khách hàng sử dụng tài sản của mình hoặc tài