Trong suốt nhiều năm qua, ngân sách nhà nước đã thực hiện tốt vai trò của mình trong việc giúp nhà nước hình thành và ổn định các quan hệ thị trường, góp phần kiểm soát tình hình lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp, làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế Song song với những mặt tích cực ấy, ngân sách nhà nước trong quá trình sử dụng vẫn bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Ví như yếu kém trong việc quản lý thu chi ngân sách nhà nước, sử dụng ngân sách nhà nước chưa đúng cách ; dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước.
Tùy định hướng và thực tiễn tình hình phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia mà bội chi ngân sách nhà nước mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực. Đối với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại, vấn đề bội chi ngân sách luôn được đề đặt ra và tìm hướng khắc phục hợp lý. Cùng với nhu cầu và hoàn cảnh này, Chính phủ nước ta đã thiết lập cơ chế pháp lý thích hợp với hoàn cảnh kinh tế thời cuộc, tận dụng các công cụ của mình để khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, ổn định nền kinh tế đất nước hiện thời và làm nền tảng phát triển các lĩnh vực khác trong tương lai. Để tìm hiểu thêm về vấn đề bội chi ngân sách nhà nước, mời các bạn cùng chúng tôi tìm hiểu thông qua bài tiểu luận: Pháp luật về bội chi ngân sách nhà nước – Thực trạng và giải pháp.
Bài tiểu luận của nhóm chủ yếu phân tích và nhìn nhận vấn đề đang được đề cập từ khía cạnh pháp lý, với những quy định của nhà nước về việc thực hiện đường lối, chủ trương nhằm khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Mong nhận được sự nhận xét và góp ý của quý thầy cô và bạn đọc.
41 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4380 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về bội chi ngân sách nhà nước: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
Bài Tiểu luận
Môn Luật Tài chính
ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
GVHD: ThS. Phan Phương Nam
Lớp: K09501
Danh sách sinh viên thực hiện:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt nhiều năm qua, ngân sách nhà nước đã thực hiện tốt vai trò của mình trong việc giúp nhà nước hình thành và ổn định các quan hệ thị trường, góp phần kiểm soát tình hình lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp, làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế… Song song với những mặt tích cực ấy, ngân sách nhà nước trong quá trình sử dụng vẫn bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Ví như yếu kém trong việc quản lý thu chi ngân sách nhà nước, sử dụng ngân sách nhà nước chưa đúng cách…; dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước.
Tùy định hướng và thực tiễn tình hình phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia mà bội chi ngân sách nhà nước mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực. Đối với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại, vấn đề bội chi ngân sách luôn được đề đặt ra và tìm hướng khắc phục hợp lý. Cùng với nhu cầu và hoàn cảnh này, Chính phủ nước ta đã thiết lập cơ chế pháp lý thích hợp với hoàn cảnh kinh tế thời cuộc, tận dụng các công cụ của mình để khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, ổn định nền kinh tế đất nước hiện thời và làm nền tảng phát triển các lĩnh vực khác trong tương lai. Để tìm hiểu thêm về vấn đề bội chi ngân sách nhà nước, mời các bạn cùng chúng tôi tìm hiểu thông qua bài tiểu luận: Pháp luật về bội chi ngân sách nhà nước – Thực trạng và giải pháp.
Bài tiểu luận của nhóm chủ yếu phân tích và nhìn nhận vấn đề đang được đề cập từ khía cạnh pháp lý, với những quy định của nhà nước về việc thực hiện đường lối, chủ trương nhằm khắc phục tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Mong nhận được sự nhận xét và góp ý của quý thầy cô và bạn đọc.
Khái quát cơ sở lý luận về bội chi ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
Như đã đề cập ở Lời mở đầu, bội chi ngân sách nhà nước đang luôn là vấn đề được Nhà nước Việt Nam coi trọng và khắc phục trong nhiều năm qua. Qua thời gian, hành lang pháp lý điều chỉnh vấn đề trên ngày càng được hoàn thiện, có thể kể đến sự ra đời của nhiều Nghị quyết của Chính phủ qua từng thời kỳ. Qua đó, vấn đề sử dụng và cân đối ngân sách nhà nước luôn được đề cao, làm cơ sở để xây dựng, củng cố và phát triển các lĩnh vực khác trong xã hội. Bên cạnh đó là các nghị định bổ trợ cho việc thực hiện, có thể kể đến Nghị định số 60/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước 2002; Nghị định số 01/2011/NĐ-CP quy định về việc Phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương; Quyết định số 958/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ;…
Lấy cơ chế pháp lý được xây dựng theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, đồng thời kết hợp tìm hiểu trên phương diện kinh tế về vấn đề bội chi ngân sách nhà nước; nhóm chúng tôi xin được tổng hợp phần cơ sở lý luận về bội chi ngân sách nhà nước với các nội dung như sau:
Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước
“Bội chi ngân sách nhà nước là bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu ngân sách trung ương của năm ngân sách Khoản 1, Điều 4 Nghị đinh số 60/2003/NĐ-CP
”.
Từ khái niệm trên cho thấy, bội chi ngân sách nhà nước được tính toán từ tổng số chi và tổng số thu của ngân sách trung ương. Cụ thể:
Tổng số chi của ngân sách trung ương bao gồm các khoản phải chi theo nhiệm vụ, tức các khoản chi phát triển kinh tế,xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Vấn đề này được quy định tại Điều 31 Luật ngân sách nhà nước 2002 và cụ thể hóa tại Điều 21 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP với nội dung như sau:
Chi đầu tư phát triển về:
+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương quản lý;
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
+ Chi hỗ trợ tài chính, bổ sung vốn, hỗ trợ và thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật;
+ Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước do các cơ quan trung ương thực hiện;
+ Chi hỗ trợ các tổ chức tài chính của Nhà nước do Trung ương quản lý;
+ Chi bổ sung dự trữ nhà nước;
+ Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
Chi thường xuyên về:
+ Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các sự nghiệp khác do các cơ quan trung ương quản lý:
Các trường phổ thông dân tộc nội trú;
Đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác;
Phòng bệnh, chữa bệnh và các hoạt động sự nghiệp y tế khác;
Các cơ sở thương binh, người có công với cách mạng, trại xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác;
Bảo tồn, bảo tàng, thư viện, trùng tu di tích lịch sử đã được xếp hạng, các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác;
Phát thanh, truyền hình và các hoạt động thông tin khác;
Bồi dưỡng, huấn luyện huấn luyện viên, vận động viên các đội tuyển quốc gia; các giải thi đấu quốc gia và quốc tế; quản lý các cơ sở thi đấu thể dục, thể thao và các hoạt động thể dục, thể thao khác;
Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
Các sự nghiệp khác.
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các cơ quan trung ương quản lý:
Sự nghiệp giao thông: duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa cầu đường, các công trình giao thông khác, lập biển báo và các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông trên các tuyến đường;
Sự nghiệp nông nghiệp, thủy lợi, ngư nghiệp và lâm nghiệp: bảo dưỡng, sửa chữa các tuyến đê, các công trình thủy lợi, các trạm trại nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp; công tác khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư; công tác khoanh nuôi, bảo vệ, phòng chống cháy rừng, bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
Điều tra cơ bản;
Đo đạc địa giới hành chính;
Đo vẽ bản đồ;
Đo đạc biên giới, cắm mốc biên giới;
Đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính;
Định canh, định cư và kinh tế mới;
Các hoạt động sự nghiệp môi trường;
Các sự nghiệp kinh tế khác.
+ Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội do ngân sách trung ương bảo đảm theo quy định của Chính phủ;
+ Hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, hệ thống Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân;
+ Hoạt động của cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Hoạt động của các cơ quan trung ương của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Liên đoàn Lao động Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
+ Phần chi thường xuyên trong các chương trình quốc gia, dự án nhà nước do các cơ quan trung ương thực hiện;
+ Thực hiện chế độ đối với người về hưu, mất sức theo quy định của Bộ Luật Lao động cho các đối tượng thuộc ngân sách trung ương bảo đảm; hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
+ Thực hiện các chính sách đối với thương binh, bệnh binh, liệt sỹ, thân nhân liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng và các đối tượng chính sách xã hội khác;
+ Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thuộc Trung ương theo quy định tại Điều 17 của Nghị định này;
+ Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
Chi viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài.
Chi cho vay theo quy định của pháp luật.
Bổ sung Quỹ dự trữ tài chính của Trung ương.
Bổ sung cho ngân sách địa phương.
Chi chuyển nguồn từ ngân sách trung ương năm trước sang ngân sách trung ương năm sau.
Nguồn ngân sách để xác định tổng số chi vừa nêu trên cần dựa trên tổng số thu mà nhà nước quy định theo dự toán năm ngân sách. Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản thu đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Cụ thể, nguồn thu ấy được dựa trên các khoản thu của ngân sách trung ương được quy định tại Điều 30 Luật Ngân sách nhà nước 2002 và hướng dẫn chi tiết tại Điều 20 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP với nội dung như sau:
Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%:
+ Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu;
+ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu;
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành (Bộ trưởng Bộ Tài chính công bố cụ thể các đơn vị hạch toán toàn ngành);
+ Các khoản thuế và thu khác từ các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt đất, mặt nước;
+ Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ Quỹ dự trữ tài chính của Trung ương, thu nhập từ vốn góp của ngân sách trung ương;
+ Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam;
+ Phần nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật từ các khoản phí và lệ phí do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu, không kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ;
+ Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn vị do các cơ quan trung ương trực tiếp quản lý;
+ Chênh lệch thu lớn hơn chi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
+ Thu kết dư ngân sách trung ương;
+ Thu chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách trung ương năm trước chuyển sang;
+ Các khoản phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật.
Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:
+ Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu quy định tại Điểm a, Khoản 1 Điều này và thuế giá trị gia tăng thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành quy định tại điểm d Khoản 1 Điều này và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, không kể thuế quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều này;
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước không kể thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
+ Phí xăng, dầu.
Đặc điểm của bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi của ngân sách nhà nước là bội chi của ngân sách trung ương:
Vấn đề trên được khẳng định bởi các lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi quản lý. Tại Khoản 3, Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2002 quy định: “Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh”. Việc quy định như trên nhằm mục đích kiểm soát các khoản nợ của ngân sách cấp địa phương, tránh hậu quả nặng nề trong hoạt động ngân sách của địa phương, ảnh hưởng đến chính sách phát triểnchung của đất nước.
Thứ hai, ngân sách trung ương phải đảm nhận chủ yếu nhiệm vụ chi đầu tư phát triển nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội , bảo đảm sự phát triển cân đối hài hoà giữa các vùng miền, xoá dần sự cách biệt về kinh tế xã hội do điều kiện khách quan mang lại giữa các địa phương trong phạm vi quốc gia.
Thứ ba, nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước được thực hiện từ việc vay trong nước và vay của nước ngoài. Bởi vậy để quản lý tốt việc vay vốn cho đầu tư, tránh tình trạng địa phương thực hiện vay vốn đầu tư tuỳ tiện dẫn đến việc không kiểm soát được khoản nợ vay của nhà nước, ngân sách trung ương sẽ thực hiện việc đi vay và quản lý số nợ đối với số vốn vay từ nước ngoài.
Xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số thu và tổng số chi ngân sách trung ương của năm ngân sách: Chênh lệch thiếu là khoản thâm hụt mà tổng số chi vượt quá tổng số thu trong năm ngân sách, dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà nước.
Về mặt nguyên tắc, số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển: Nguyên tắc trên là một trong những phương thức quan trọng để đảm bảo sự cân bằng thu, chi ngân sách. Chi đầu tư phát triển là các khoản chi được quy định chi tiết tại Khoản 1, Điều 21 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP, nhằm làm tăng điều kiện cơ sở vật chất của quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Nguyên nhân của bội chi ngân sách nhà nước
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi ngân sách nhà nước:
Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh: Khủng hoảng làm cho các khoản thu của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi ngân sách nhà nước tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, các khoản thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng - điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước: Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn…), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNS.
Nguyên tắc giải quyết bội chi ngân sách nhà nước
Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc Khoản 2, Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2002
:
Không sử dụng cho tiêu dùng: Đây được coi là nguyên tắc bất di bất dịch trong việc giải quyết bội chi nhằm hạn chế các khoản chi từ hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Chi tiêu dùng là khoản chi căn cứ vào mục đích và nội dung, là những khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai. Từ đặc điểm của chi tiêu dùng, có thể nhìn nhận chi tiêu dùng giống như các khoản chi thường xuyên Khoản 2, Điều 3 Luật Ngân sách nhà nước 2002
, bao gồm chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hôi khác;quốc phòng, an ninh, và trật tự an toàn xã hội; các hoạt động sự nghiệp kinh tế; hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam… Nguyên tắc này được đặt ra nhằm đảm bảo khả năng giải quyết tình trạng bội chi ngân sách của nhà nước, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
Chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển: Trong quá trình giải quyết bội chi ngân sách nhà nước, Chính phủ vẫn phải đề cao việc thực hiện tăng trưởng kinh tế đất nước bằng cách sử dụng ngân sách cho các khoản chi đầu tư và phát triển nhằm làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế. Từ đó thu hồi vốn và kiếm thêm lợi nhuận bổ sung vào nguồn ngân sách nhà nước đang trong tình trạng thâm hụt.
Bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn: Nguyên tắc này được đảm bảo thực hiện bởi hai nguyên tắc cụ thể phía trên. Tuy nhiên, việc thực hiện nó phải dựa trên sự phối hợp, cân nhắc kỹ lưỡng và cẩn trọng của cơ quan chức năng trong việc xác định rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp theo quy định của pháp luật và đường lối phát triển của đất nước; phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái đối với đồng ngoại tệ;… nhằm hướng đến mục tiêu chung là giải quyết tình trạng bội chi ngân sách nhà nước.
Các giải pháp giải quyết bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng các biện pháp sau ân sách nhà nước/xu-ly-boi-chi-ngan-sach-nha-nuoc-nham-kiem-che-lam-phat-hien-nay.190.html
:
Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước:
Tăng thu: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt ngân sách nhà nước và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất, kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Giảm chi: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách nhà nước và xuất hiện lạm phát. Ở đây, triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Phát hành tiền mới để bù chi: Việc xử lý bội chi ngân sách nhà nước có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển, gây “tăng trưởng nóng” và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
Vay trong nước và ngoài nước:
Biện pháp vay trong và ngoài nước là nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước được quy định cụ thể tại Khoản 2, Điều 4 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP. Thông qua hoạt động vay, Chính phủ và chính quyền địa phương ghi nhận nợ đối với các trái chủ về khoản nợ và bảo lãnh của mình cùng các thỏa thuận về lãi suất, hoàn lại... Các biện pháp này được thực hiện qua các hoạt động cụ thể là phát hành trái phiếu. Các loại trái phiếu được phát hành gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương.
Theo quy định của Nghị định số 01/2011/NĐ-CP, ba loại trái phiếu kể trên được phân loại theo phạm vi phát hành trong và ngoài nước như sau:
Các khoản vay trong nước từ phát hành trái phiếu Chính phủ và các nguồn tài chính khác trong nước gồm:
Trái phiếu Chính phủ.
Trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.
Trái phiếu Chính quyền địa phương.
Các khoản Chính phủ vay nước ngoài được đưa vào cân đối ngân sách:
Trái phiếu Chính phủ.
Trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.
Nghị định số 01/2011/NĐ-CP cũng quy định đối với các loại trái