Đề tài Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại Việt Nam

Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng đã trở thành một nhân tố chủ yếu trong chính sách của nhiều quốc gia, bởi lẽ để tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường thế giới yêu cầu của mỗi doanh nghiệp đặc biệt với doanh nghiệp thương mại phải có được những mặt hàng không chỉ hợp về mẫu mã, đủ về số lượng hay mang yếu tố hiện đại mà còn chú ý đến chất lượng của mặt hàng đó. Ngày nay nhờ đổi mới khoa học kỹ thuật mà chu trình sản xuất được rút ngắn, chất lượng sản phẩm được nâng cao, mặt khác thu nhập quốc dân càng ngày càng cao, nhu cầu người tiêu dùng luôn luôn đổi mới đa dạng nên càng đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Như ông Hoàng Mạnh Tuấn nguyên Tổng cục phó Tổng Cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã nói: "chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại, hương vong trong từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước nói chung". Tuy nhiên trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở cửa, với sự phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật,công nghệ hiện đại và xu thế hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với những thử thách to lớn như: Sức ép của hàng nhập, của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh mới mẻ đầy biến động. Cung thường xuyên vượt cầu. Hàng rào thuế quan dần bị xoá bỏ. Những thị trường quan trọng như thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản lại hết sức nghiêm ngặt về thủ tục và tiểu chuẩn chất lượng sản phẩm. Vì vậy vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng bằng pháp luật về chất lượng sản phẩm ngày càng cấp bách và trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Chính vì ý nghĩa vô cùng quan trọng đó, tôi chọn đề tài . "Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại việt nam" 2. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sản phẩm hàng hóa và tình hình chất lượng sản phẩm của Việt Nam trước và sau khi có Luật chát lượng sản phẩm hàng hóa, từ đó tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục tình trạng trên. Bài viết sẽ tập trung phân tích bản chất và vai trò của chất lượng hàng hoá đối với Nhà nước, các doanh nghiệp, và người tiên dùng. Đồng thời nêu lên những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật chất lượng hàng hóa vào thực tiễn để tìm ra hướng hoàn thiện Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa.

doc32 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3023 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng đã trở thành một nhân tố chủ yếu trong chính sách của nhiều quốc gia, bởi lẽ để tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường thế giới yêu cầu của mỗi doanh nghiệp đặc biệt với doanh nghiệp thương mại phải có được những mặt hàng không chỉ hợp về mẫu mã, đủ về số lượng hay mang yếu tố hiện đại mà còn chú ý đến chất lượng của mặt hàng đó. Ngày nay nhờ đổi mới khoa học kỹ thuật mà chu trình sản xuất được rút ngắn, chất lượng sản phẩm được nâng cao, mặt khác thu nhập quốc dân càng ngày càng cao, nhu cầu người tiêu dùng luôn luôn đổi mới đa dạng nên càng  đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Như ông Hoàng Mạnh Tuấn nguyên Tổng cục phó Tổng Cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã nói: "chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại, hương vong trong từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước nói chung". Tuy nhiên trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay cùng với quá trình mở cửa, với sự phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật,công nghệ hiện đại và xu thế hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với những thử thách to lớn như: Sức ép của hàng nhập, của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh mới mẻ đầy biến động. Cung thường xuyên vượt cầu. Hàng rào thuế quan dần bị xoá bỏ. Những thị trường quan trọng như thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản lại hết sức nghiêm ngặt về thủ tục và tiểu chuẩn chất lượng sản phẩm... Vì vậy vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng bằng pháp luật về chất lượng sản phẩm ngày càng cấp bách và trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Chính vì ý nghĩa vô cùng quan trọng đó, tôi chọn đề tài . "Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa và thực tiễn tại việt nam" 2. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng sản phẩm hàng hóa và tình hình chất lượng sản phẩm của Việt Nam trước và sau khi có Luật chát lượng sản phẩm hàng hóa, từ đó tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục tình trạng trên. Bài viết sẽ tập trung phân tích bản chất và vai trò của chất lượng hàng hoá đối với Nhà nước, các doanh nghiệp, và người tiên dùng. Đồng thời nêu lên những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật chất lượng hàng hóa vào thực tiễn để tìm ra hướng hoàn thiện Pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa. 3. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp phân tích: Phân tích các khái niệm về chất lượng hàng hóa để hiểu được bản chất cuả nó. Bên cạnh đó, cần phân tích vai trò của chất lượng hàng hóa để nói lên sự cần thiết phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra, trên cơ sỏ đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế của hàng lang pháp lý về chất lượng sản phẩm để có phương hướng giải quyết những hạn chế đó. Phưong pháp tổng hợp: Đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật về chất lượng hàng hóa. Phương pháp liệt kê: liệt kê hệ thống các văn bản có liên quan để tiện theo dõi và làm căn cứ cho phần lý luận của mình. 4. Kết cấu của đề tài : PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1.2 Đối tượng nghiên cứu 1.3 Phương pháp nghiên cứu 1.4 Kết cấu của đề tài PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa PHẦN KẾT LUẬN PHẦN NỘI DUNG Chương1: Cơ sở pháp lý về chất lượng sản phẩm hàng hóa 1.1 Khái quát về chất lượng sản phẩm hàng hóa 1.1.1 Khái niệm về chất lượng sản phẩm hàng hóa Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói nhiều các thuật ngữ "chất lượng", "chất lượng sản phẩm", "chất lượng cao",vv... Mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm thúc đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Theo quan điểm của triết học Mác thi chất lượng là mức đọ , thước đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Gía trị sử dụng của sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm và nó chính là chất lượng sản phẩm. Theo Giáo sư Ishikawa chuyên gia về chất lượng của Nhật Bản cho rằng: “Chất lượng là sự thõa mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất” Theo quan điểm chất lượng hướng theo công nghệ thì chất lượng sản phẩm là “tổng tính chất đặc trưng của sản phẩm thể hiện ở mức độ thỏa mãn những yêu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội” Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất của sản phẩm có khả năng thỏa mãn được những nhu cầu phù hợp công dụng của sản phẩm đó, chất lượng sản phẩm là sự phù hợp các tiêu chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật. Theo tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu(EOQC) thì "Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng" Theo tiêu chuẩn của Australia(AS1057-1985)thì "Chất lượng là sự phù hợp với mục đích" Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đưa ra định nghĩa ISO 9000 - 1994 (TCVN 5814 - 1994) thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp nhận định nghĩa này:"Chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc trưng của sản phẩm tạo ra cho nó khả năng thoả mãn nhu cầu đã được nêu ra hoặc còn tiềm ẩn". Qua các định nghĩa trên ta có thể nêu ra 3 điểm cơ bản về chất lượng sản phẩm hàng hoá sau đây: + Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật nói lên tính hữu ích của sản phẩm. + Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện cụ thể của nhu cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội và phong tục. + Chất lượng sản phẩm phải được sử dụng trong tiêu dùng và cần xem xét sản phẩm thoả mãn tới mức nào của người tiêu dùng. Ở nước ta, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quan niệm hẹp hơn, chỉ là các yêu cầu về an toàn mà sản phẩm, hàng hoá phải đáp ứng. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá định nghĩa chất lượng sản phẩm, hàng hoá “là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hoá đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, chất lượng sản phẩm, hàng hoá được hiểu là chất lượng về mặt an toàn của sản phẩm, hàng hoá đối với người tiêu dùng nên thực chất Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá là luật về bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hóa. Sản phẩm, hàng hoá và chất lượng sản phẩm, hàng hoá cơ bản do yếu tố con người, công nghệ và nguyên liệu đầu vào quyết định nhưng với mục tiêu bảo đảm an toàn nên luật chỉ điều chỉnh các quan hệ để bảo đảm an toàn của sản phẩm, hàng hoá từ khâu sản xuất, đưa ra lưu thông trên thị trường đến bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng của người tiêu dùng. 1.1.2. Đặc trưng của chất lượng sản phẩm. + Chất lượng là một phạm trù kinh tế xã hội - công nghệ tổng hợp. Ở đây chất lượng sản phẩm được quy định bởi 3 yếu tố kinh tế, xã hội, kỹ thuật chúng ta không được coi chất lượng chỉ đơn thuần là kỹ thuật hay kinh tế mà phải quan tâm tới cả 3 yếu tố. + Chất lượng sản phẩm là một khái niệm có tính tương đối thường xuyên thay đổi theo thời gian và không gian. Vì thế chất lượng luôn phải được cải tiến để phù hợp với khách hàng với quan niệm thoả mãn khách hàng ở từng thời điểm không những thế mà còn thay đổi theo từng thị trường chất lượng sản phẩm được đánh giá là khách nhau phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện kinh tế văn hoá của thị trường đó. + Chất lượng là khái niệm vừa trừu tượng vừa cụ thể. Trừu tượng vì chất lượng thông qua sự phù hợp của sản phẩm với nhu cầu, sự phù hợp này phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của khách hàng. Cụ thể vì chất lượng sản phẩm phản ánh thông qua các đặc tính chất lượng cụ thể có thể đo được, đếm được. Đánh giá được những đặc tính này mang tính khách quan vì được thiết kế và sản xuất trong giai đoạn sản xuấ 1.1.3. Vai trò của chất lượng sản phẩm hàng hóa Chất lượng của sản phẩm, hàng hoá thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản phẩm, hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm an toàn cho con người, động thực vật, tài sản, môi trường.. Bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với người tiêu dùng, người sản xuất mà còn cả với nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và lợi ích quốc gia Chất lương sản phẩm là chính sách do doanh nghiệp thực hiện các chiến lược Marketing tạo uy tin và danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp, khẳng định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển bền lâu của doanh nghiệp. Nhờ phát triển chất lượng đã giúp tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm tai nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay, cuộc cạnh tranh toàn cầu đã, đang và sẽ trở nên ngày càng mạnh mẽ với qui mô và phạm vi ngày càng lớn. Sự phát triển của khoa học và công nghệ cho phép các nhà sản xuất nhạy bén có khả năng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng,  tạo ra lợi thế cạnh tranh.Tình hình trên đã khiến cho chất lượng trở thành yếu tố cạnh tranh, trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo hướng dẫn và kích thích tiêu dùng. Riêng đối với sản phẩm là tư liệu sản xuất chất lượng sản phẩm tốt đảm bảo cho việc trang bị lỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, nâng cao năng suất lao dộng. Chất lượng sản phẩm không những làm tăng uy tín hàng hóa nươc ta trên thị trường thế giới mà còn tạo điều kiện tăng cương thu nhập ngoại tệ cho đât nước. Bên cạnh đó đảm bảo chất lượng hàng hoá, chống hàng giả, hàng nhái, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, chống hàng lậu không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam. 1.2. Pháp luật Việt Nam về chất lượng sản phẩm hàng hóa 1.2.1. Các văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, các nước cũng cần ngăn cản các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu đó nên liên tục những năm gần đây, nhiều nước đã ban hành các đạo luật chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá, nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá năm 1990 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999) với gần một trăm văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chất lượng chưa thống nhất và đồng bộ, đang ngày tỏ ra bất cập với yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong tình hình mới. Trong những năm gần đây, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá nước ta không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.. Để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 (có hiệu lực từ 01/1/2007). Ngày 21 tháng 11 năm 2007, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá (số 05/2007/QH12), có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2008. Bên cạnh Luật Chất lượng sản phẩm là hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành được các cơ quan chức năng ban hành để hướng dẫn áp dung Luật chất lượng sản phẩm như vào thực tiễn như: - Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hang hoá - Nghị định số 67/2009/NĐ-CP ngày 3/8/2009 của Chính phủ Sửa đổi một số của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP và Nghị định số 132/2008/NĐ-CP - Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 5/6/2009 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hoá - Thông tư số 01/2009/TT-BKHCN ngày 20/3/2009 Quy định Danh mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ -Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục đăng ký lĩnh vực hoạt động đánh giá sự phù hợp Thông tư số 09/2009/TT-BKHCN ngày 8/4/2009 Hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp - Thông tư số 11/2009/TT-BKHCN ngày 6/5/2009 Quy định về Giải thưởng Chất lượng Quốc gia - Thông tư số 16/2009/TT-BKHCN ngày 2/6/2009 Hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường - Thông tư số 17/2009/TT-BKHCN ngày 18/6/2009 Hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hoá nhập khẩu thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ - Thông tư số 19/2009/TT-BKHCN ngày 30/6/2009 Quy định các biện pháp quản lý chất lượng đối với sản phẩm, hàng hoá cần tăng cường quản lý trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường - Thông tư số 22/2009/TT-BKHCN ngày 30/9/2009 Hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký sản phẩm mới có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ - Thông tư số 06/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Quy định về chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông - Thông tư số 07/2009/TT-BTTTT ngày 24/3/2009 Ban hành Danh mục sản phẩm chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông bắt buộc phải chứng nhận và công bố hợp quy - Thông tư số 19/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 Ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công thương - Thông tư số 03/2010/TT-BLĐTBXH ngày 19/1/2010 Ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hoá nhóm 2 và hướng dẫn trình tự, thủ tục và nội dung kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong sản xuất... Ngoài ra, một còn một số quy định khác được quy định rải rác ở một số luật có liên quan như Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, Bộ luật dân sự, Luật thương mại... 1.2.2. Các quy định của luật chất lượng sản phẩm hàng hóa Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá là đạo luật đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá tại Việt Nam. Theo quy định của Luật, hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá là công trình xây dựng, dịch vụ, hàng hoá đã qua sử dụng không thuộc diện phải kiểm định; sản phẩm, hàng hoá chuyên phục vụ quốc phòng, an ninh và sản phẩm, hàng hoá đặc thù khác phải tuân thủ các nguyên tắc chung của Luật này và được điều chỉnh cụ thể bằng văn bản pháp luật khác. Theo quy đinh của Luật này sản phẩm (kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng), hàng hoá (sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị) đều được quản lý chất lượng theo các nguyên tắc sau: Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Sản phẩm, hàng hoá không có khả năng gây mất an toàn (sau đây gọi là sản phẩm, hàng hoá nhóm 1) là sản phẩm, hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, không gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn của hàng hoá, chất lượng mà người sản xuất sản phẩm, hàng hoá đó công bố áp dụng. Sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn (sau đây gọi là sản phẩm, hàng hoá nhóm 2) là sản phẩm, hàng hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường được quản lý trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp dụng. Danh mục sản phẩm, hàng hóa thuộc nhóm 2 này sẽ do Chính phủ quy định cụ thể. Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh nhằm bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường; nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá Việt Nam. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm thực thi các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá phải bảo đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hoá và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng. Dưới đây là một số nội dung chủ yếu của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá về các nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá và chính sách của nhà nước về vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá: Thứ nhất, về chính sách của nhà nước về hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Nhằm tăng cường chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá trong nước, Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn tiên tiến cho sản phẩm, hàng hoá và công tác quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh; xây dựng chương trình quốc gia nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa; đầu tư, phát triển hệ thống thử nghiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá; tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; xây dựng ý thức sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá có chất lượng, vì quyền lợi người tiêu dùng, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường; nâng cao nhận thức xã hội về tiêu dùng, xây dựng tập quán tiêu dùng văn minh; khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào hoạt động thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; mở rộng hợp tác với các quốc gia, các vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, tổ chức và cá nhân nước ngoài trong hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá; tăng cường ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế thừa nhận lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực về kết quả đánh giá sự phù hợp; khuyến khích các tổ chức đánh giá sự phù hợp của Việt Nam ký kết thỏa thuận thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp với tổ chức tương ứng của các nước, vùng lãnh thổ nhằm tạo thuận lợi cho phát triển thương mại giữa Việt Nam với các nước, vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định nghiêm cấm việc sản xuất sản phẩm, nhập khẩu, mua bán hàng hoá đã bị Nhà nước cấm lưu thông; sản xuất sản phẩm, xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hóa, trao đổi, tiếp thị sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hoá không có nguồn gốc rõ ràng; xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hoá, trao đổi, tiếp thị sản phẩm, hàng hoá đã hết hạn sử dụng; dùng thực phẩm, dược phẩm không bảo đảm chất lượng hoặc đã hết hạn sử dụng làm từ thiện hoặc cho, tặng để sử dụng cho người; cố tình cung cấp sai hoặc giả mạo kết quả thử nghiệm, kiểm tra, giám định, kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa; giả mạo hoặc sử dụng trái phép dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy, các dấu hiệu khác về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc ch
Luận văn liên quan