Xây dựng và phát triển thi thường chứng khoán (TTCK) là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đó cũng chính là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo lập kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Định hướng này tiếp tục được khẳng định trong văn kiện Đại hội X của Đảng: "Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh TTCK thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua TTCK. Hình thành đồng bộ thể chế về TTCK; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này".
Với trên 5 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%.
52 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2733 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU….…………………………………………………………………3
B. NỘI DUNG………………………………………………………………………...4
I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán 4
1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán 4
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán 4
1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán 5
2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 6
2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. 6
2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market): 6
2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market): 7
2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.. 9
2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần. 9
2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sơ cấp. 9
2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp. 10
2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách. 10
2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán. 11
2.2.6 Công tác thanh toán bù trừ 12
2.2.7 Tư vấn về phát hành và mua bán chứng khoán 13
3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng khoán 20
1. Trên thị trường sơ cấp 20
1.1. Vai trò phát hành 20
1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp 21
1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành 21
2. Trên Thị trường thứ cấp 21
2.1. Kinh doanh trái phiếu 21
2.2. Sản phẩm phái sinh 22
2.3. Cho vay chứng khoán 22
II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam 22
1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 23
1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 26
2. Sự tham gia của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán 29
2.1. Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ thông qua các các công ty chứng khoán của mình 30
2.2. Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là chủ thể phát hành chứng khoán 36
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 38
III. Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện 41
1. Đối với Nhà nước và các Cơ quan quản lý thị trường 41
2. Các giải pháp đối với các Ngân hàng thương mại 45
C. KẾT LUẬN 48
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THAM GIA CỦA CÁC THÀNH VIÊN
1. Tiêu chuẩn đánh giá sự tham gia của các thành viên trong việc xây dựng bài tập nhóm:
Điểm
Đánh giá mức độ tham gia
Ghi chú
A
Tốt – Nhiệt tình
“ + ” : Rất tốt
B
Khá
C
Trung bình
D
Không tham gia
2. Bảng đánh giá:
TÊN THÀNH VIÊN
NHIỆM VỤ
ĐIỂM ĐÁNH GIÁ
Lê Thị Hương (Nhóm trưởng)
Phân công, tổng hợp, đánh giá bài,…
A
Lê Thi Dung
B.II.2. Sự tham gian của NHTM trên thị trường chứng khoán
A+
Trần Thị Huyền Trang
B.I.3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của TTCK
A+
Nguyễn Thị Thơ
B.III. Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện
A+
Nguyễn Thi Như Quỳnh
B.II.1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
A+
Hoàng Thị Hồng Nhung
B.I.1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của TTCK
A+
Đinh Thị Thương
B.I.2. 2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại trên TTCK
A+
Trương Thị Hương Giang
Tìm tài liệu, làm phần Mở đầu, kết luận
A+
A. LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng và phát triển thi thường chứng khoán (TTCK) là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đó cũng chính là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo lập kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Định hướng này tiếp tục được khẳng định trong văn kiện Đại hội X của Đảng: "Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh TTCK thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua TTCK. Hình thành đồng bộ thể chế về TTCK; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này".
Với trên 5 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%.
Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa. Bên cạnh đó việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động của NHTM trên TTCK đang là một vấn đề khá nóng hổi, cần thiết. Làm được điều đó, chúng ta đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho sự hoạt động và phát triển của NHTM và TTCK.
Chính vì những lý do nêu trên mà nhóm em đi tìm hiểu hệ thống pháp về hoạt động của NHTM trên TTCK ở Việt Nam hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, 1992 các tổ chức thuộc nghiên cứu BTC và ngân hàng nhà nước Việt Nam đã triển khai nghiên cứu đề án hinhg thành phát triển thị trường vốn ở Việt Nam. Ngày 28/11/1996 Chính phủ ban hành nghị định số 75/CP thành lập UBCKNN – là cơ quan thuộc chính phủ quản lý các hoạt động về chứng khoán và TTCK ở Việt Nam.
Ngày 11/07/1998, Nghị định số 48/1998/ NĐ-CP của chính phủ về chứng khoán và TTCK và Quyết định số 127/1998/QĐ-TTH của thủ tướng chính phủ về việc thành lập TTGDCK ở HN và TPHCM được ban hành. Ngày 19/02/2004, theo nghị định 66/2004/NĐ-CP của Chính phủ. UBCK được chuyển về dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tài chính. Ngày 08/03/2005, TTGDCK HN chính thức được khai trương.
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một. Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của các quá trình mua bán chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thoongd nhất phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường thư bản.
- Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng : “ Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
- Quan Điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được đại đa số các Sở giao dịch chứng khoám cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi mua bán cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay, được trình bày trong giáo trình là:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động phát hành mua bán chuyển nhượng chứng khoán của các chủ thể trong nền kinh tế như: phát hành, mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán (tặng cho...làm ở trung tâm lưu ký chứng khoán).
1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán
Hoạt động của thị trường chứng khoán được thể hiện qua hoạt động của thị trường tập trung, thị trường phi tập trung và một số thị trường chứng khoán khác.
- Sở giao dịch chứng khoán hay còn gọi là thị trường tập trung, nơi diễn ra giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán của các công ty lớn. Tại đây người mua và người bán (đại lý,môi giới) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch trao đổi chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Ủy ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch này chịu sự điều tiết của Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán được biết đến là sở Giao dịch chứng khoán Luân Đôn, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng khoán Pa Ri.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung: hoạt động của mô hình giao dịch này thông qua quầy, là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn có một có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Thị trường chứng khoán phi tập trung không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này lớn hơn rất nhiều lần so với Sở giao dịch.
Ngoài hai thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC.
2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
NHTM có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển TTCK, cả đối với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market):
- Các ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng cổ phần). các ngân hàng cổ phần phát hành cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung them trong quá trình hoạt động. ngoài ra, tất cả các ngân hàng (không phân biệt thành phần sở hữu) cũng phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Những việc làm này (phát hành cổ phiếu, trái phiếu) đã tạo cho TTCK một khối lượng hàng hóa rất lớn ở thị trường sơ cấp.
- Ngân hàng cung cấp các dịch vụ về tư vấn phát hành chứng khoán, làm đại lý phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Các doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu (đối với công ty cổ phần) hoặc trái phiếu (đối với tất cả các doanh nghiệp) để tạo vốn, hoặc bổ sung hay tăng vốn, có thể nhờ ngân hàng làm các dịch vụ:
+ Tư vấn về vấn đề phát hành (lựa chọn loại chứng khoán phát hành, lợi suất, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác);
+ Nhờ ngân hàng làm đại lý phát hành chứng khoán hưởng phí hoa hồng hoặc bao tiêu toàn bộ chứng khoán của một đợt phát hành và hưởng phí bao tiêu.
2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market):
Các ngân hàng thực hiện các dịch vụ với tư cách là một trung gian môi giới chứng khoán như:
+ Mua bán chứng khoán hộ cho khách hàng để hưởng phí hoa hồng.
+ Bảo quản hộ chứng khoán.
+ Thu hồi vốn, nhận lãi chứng khoán hộ cho khách hàng cũng như dịch vụ thanh toán các chứng khoán…Nói ngắn gọn, ngân hàng làm dịch vụ đại diện cho khách hàng hàng trong việc lưu giữ và quản lý chứng khoán, ghi có vào tài khoản của họ ( khi thu hồi vốn chứng khoán đến hạn, thu lãi chứng khoán, cổ tức…) gửi tại ngân hàng.
+ Tư vấn mua bán chứng khoán, tư vấn về mặt giá cả chứng khoán khi mua bán hoặc ngân hàng có thể mua bán chứng khoán cho chính mình để hưởng lợi hoặc hưởng giá thặng dư hoặc vì nhiều mục đích khác.
Về mặt lý thuyết NHTM có thể thực hiện được tất cả các nghiệp vụ đã nêu trên nhưng thực tế làm được hay không là do điều kiện cụ thể mỗi ngân hàng trong từng nước.
Ngày nay, ở các nước, trên TTCK các Ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán các cổ phiếu của mình ( Ngân hàng cổ phần), hoặc mua cổ phiếu của các doanh nghiệp, của các Ngân hàng khác và của nhà nước, tức là với tư cách của một khách hàng bình thường trên thị trường. Đồng thời và quan trọng hơn, các ngân hàng tham gia thị trường với chức năng môi giới ăn hoa hồng hoặc chức năng kinh doanh chứng khoán.
Trong trường hơp làm chức năng môi giới, ngân hàng trên thực tế chỉ thực hiện yêu cầu của khách hàng là lấy danh nghĩa của mình để mua bán chứng khoán cho khách hàng và được hưởng một khoản hoa hồng theo thỏa thuận. với chức năng này, ngân hàng không hề phải bỏ ra một đồng vốn nào, mọi khoản chi phí khách hàng phải chịu trách nhiệm cung cấp. Hơn nữa, lợi dụng quyền thay mặt mình và quyền không phải thông báo cho khách hàng biết đã mua chứng khoán của ai hoặc bán cho ai, ngân hàng có thể bán ngay số chứng khoán của mình cho khách hàng hoặc mua luôn số chứng khoán của khách hàng cho mình, nếu thấy có lợi. Chẳng hạn, khi một khách hàng ủy quyền cho ngân hàng mua cổ phiếu của một công ty nào đó với giá “rẻ nhất” tại thời điểm quy định, thì ngân hàng sẽ không nhất thiết phải mua các cổ phiếu đó ở Sở GDCK, mà có thể lấy chứng từ dự trữ của mình để bán cho khách hàng. Tất nhiên, trong trường hợp như vậy, ngân hàng phải nắm vững tỷ giá chính thức để xác định mức giá bán cho khách hàng.
Các ngân hàng cũng tích cực sử dụng chức năng kinh doanh chứng khoán, tức là chức năng mua đi bán lại các loại chứng khoán bằng vốn của mình bỏ ra. Đặc điểm của hình thức kinh doanh này là ngân hàng luôn luôn mua chứng khoán của khách hàng bằng tiền mình và bán cho khách hàng từ dự trữ của mình. Đồng thời việc thực hiện các nghiệp vụ này đối với khách hàng không vì mục đích ăn hoa hồng, mà lợi nhuận chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Nghĩa là ngân hàng sẽ tìm cách mua các chứng khoán với giá thấp nhất, bán chúng với giá cao nhất.
Một dạng khác của hoạt động kinh doanh trên TTCK của ngân hàng là hoạt động đầu cơ chứng khoán. ở Sở GDCK khác nhau thị giá của cùng 1 loại chứng khoán cũng GDCK có mối liên hệ về thông tin rất chặt chẽ. Do đó, các ngân hàng sẽ mua các chứng khoán ở nơi có thị giá thấp để bán ở nơi có thị gía cao để kiếm lời cho tới khi thị giá được cân bằng giữa các thị trường.
2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán..
2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần.
Ngân hàng tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần hoặc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước với 1 tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hóa, vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu của kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải là trợ thủ đắc lực cho các Công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần vay tín dụng. Như vậy, chính chế độ tín dụng và ngân hàng đã xã hội hóa các nguồn vốn, giải quyết mâu thuẫn trong sự vận động của nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ tính chất tư nhân cá biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. một doanh nghiệp có thể bắt đầu hoạt động của mình bằng một món nợ vay ngân hàng. Vay ngân hàng là một cơ sở hoat động của các doanh nghiệp và năng lực kinh doanh của họ. các ngân hàng là người đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty, họ quyết định có nên cho vay hay không và có nên tiếp tục cung cấp tín dụng hay không. Ngân hàng sẽ cung cấp kinh doanh nếu biết được rằng một Công ty thành công cuối cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Như vậy kỷ cương tài chính của Ngân hàng sẽ đưa Công ty vào TTCK, sau đó TTCK sẽ bổ sung một kỷ luật tài chính đối với Công ty.
2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
Khi những nhà sáng lập một công ty nào đó muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn, họ có thể dựa vào uy tín và kinh nghiệm của Ngân hàng để ký hợp đồng về việc phát hành và bán các chứng khoán của mình. Như vậy, Ngân hàng thực hiện chức năng môi giới phát hành chứng khoán giữa những người muốn bán và những người mua chứng khoán. Khi đảm nhận vai trò này, Ngân hàng sẽ giúp cho những người sáng lập công ty chọn lựa loại chứng khoán phát hành, tư vấn về các vấn đề như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Trong những trường hợp đặc biệt, như sẽ phát hành khá lớn, các ngân hàng có thể cùng nhau chia sẻ việc dự định số phát hành này nhằm giảm thiểu rủi ro, hoặc mua toàn bộ các cổ phiếu, trái phiếu phát hành mới và sau đó bán lại cho công chúng. Như vậy, Ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng trên thị trường sơ cấp.
2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp.
Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới và ở nước ta sau này, gọi là dịch vụ trung gian chứng khoán (Brokerate service). Hoạt động loại này của ngân hàng trên thị trường thứ cấp cần phải có luật pháp đảm bảo với các quy định chặt chẽ, nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trường chứng khoán.
Ở nước ta, khi thành lập Sở giao dịch chứng khoán, có thể nói ngân hàng là ứng cử viên có nhiều ưu thế nhất vào chức danh người môi giới chứng khoán, bởi lẽ:
- Ngân hàng là người hiểu biết khá tường tận về các doanh nghiệp phát hành chứng khoán (thông qua các quan hệ tín dụng, thanh toán…).
- Ngân hàng là người sẵn có những phương tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu cầu của người môi giới.
- Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán.
2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách.
Ngân hàng có thể lưu giữ các chứng khoán được sử dụng như vật thế chấp cho một khoản vay của khách hàng; các ngân hàng nhỏ không có đủ điều kiện để giữ chứng khoán cho khách hàng, có thể giữ chứng khoán tại một ngân hàng lớn; các doanh nghiệp công ty cũng có thể có yêu cầu này; những cá nhân có nguồn tiền lớn cũng có thể nhờ ngân hàng quản lý sinh lời tài sản của họ và giao chứng khoán cho ngân hàng quản lý.
Mặt khác, ngân hàng cũng được yêu cầu bởi những người có chứng khoán thực hiện những dịch vụ có liên quan đến chứng khoán khi họ vắng mặt trong một thời gian dài, như thu hồi vốn các chứng khoán đến hạn, hoặc thu lãi cổ tức và ghi có vào tài khoản của họ. Đối với các ngân hàng, đây là dịch vụ ngày càng có khả năng mở rộng và là một nguồn lợi đáng kể. Còn đối với những người mua bán chứng khoán, việc ngân hàng sẵn sàng cung cấp loại dịch vụ này đã giúp cho họ đỡ tốn kém chi phí, thời gian, được an toàn và hưởng lợi hơn nhờ kinh nghiệm và chuyên môn của ngân hàng.
2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán.
Nghiệp vụ thanh toán tiếp nối dịch vụ quản lý chứng khoán đã nêu trên. Ngân hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản chứng khoán để theo dõi việc mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán của khách hàng, kể cả việc thu lãi, thu cổ tức. Rõ ràng những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho những hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, các trung gian, môi giới không phải bận tâm với việc lưu giữ và theo dõi việc mua bán một số lượng khổng lồ các cổ phiếu,