Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch kinh tế diễn ra ngày
càng sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với sự phát triển đó
thì nhu cầu tất yếu là cần phải có một cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện các giao dịch này. Hợp đồng là một là một lựa chọn hàng đầu đối với
các nhà đầu tư. Hiện nay, đa số các giao dịch đều được cụ thể hóa dưới hình
thức hợp đồng, nó là căn cứ nhằm ràng buộc các bên vào những gì mà họ đã
cam kết, để khi có tranh chấp xảy ra thì đó là một trong các căn cứ quan trọng
để xác định trách nhiệm của các bên. Trong điều kiện nước ta mới gia nhập
WTO, được hội nhập trong môi trường kinh tế cạnh tranh công bằng và lành
mạnh, mà ở đó sự bảo hộ của nhà nước là gần như không tồn tại vì vậy các
doanh nghiệp phải tự mình vận động để tồn tại và phát triển trong môi trường
cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Chính vì vậy vấn đề pháp lí về hợp đồng
được các bên đặc biệt chú ý, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ về mặt nội dung và
hình thức trong tất cả các giao dịch và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Hiện nay pháp luật về hợp đồng của nước ta đã hình thành và ngày càng
hoàn thiện đồng thời cũng đang được điều chỉnh cho phù hợp với pháp luật hợp
đồng của thế giới có như vậy mới bảo đảm khả năng hội nhập với nền kinh tế
th ế giới. Hiện nay các hợp đồng về mua bán hàng hóa, dịch vụ chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng số các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp thực hiện, vì
trên thực tế hiện nay thì nền kinh tế dịch vụ và mua bán hàng hóa mang lại một
doanh thu khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân các nước. Với một khối lượng
hàng hóa dịch vụ khổng lồ lưu thông trên thị trường mà không có hợp đồng thì
rất dễ gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế. Trên thực tế thì vai trò của hợp đồng
là không th ể phủ nhận nhưng còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện
hành lang pháp lý.
97 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2303 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
1
Đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực
tiễn áp dụng tại công ty TNHH nhà nước một
thành viên Thăng Long”
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch kinh tế diễn ra ngày
càng sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với sự phát triển đó
thì nhu cầu tất yếu là cần phải có một cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện các giao dịch này. Hợp đồng là một là một lựa chọn hàng đầu đối với
các nhà đầu tư. Hiện nay, đa số các giao dịch đều được cụ thể hóa dưới hình
thức hợp đồng, nó là căn cứ nhằm ràng buộc các bên vào những gì mà họ đã
cam kết, để khi có tranh chấp xảy ra thì đó là một trong các căn cứ quan trọng
để xác định trách nhiệm của các bên. Trong điều kiện nước ta mới gia nhập
WTO, được hội nhập trong môi trường kinh tế cạnh tranh công bằng và lành
mạnh, mà ở đó sự bảo hộ của nhà nước là gần như không tồn tại vì vậy các
doanh nghiệp phải tự mình vận động để tồn tại và phát triển trong môi trường
cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Chính vì vậy vấn đề pháp lí về hợp đồng
được các bên đặc biệt chú ý, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ về mặt nội dung và
hình thức trong tất cả các giao dịch và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Hiện nay pháp luật về hợp đồng của nước ta đã hình thành và ngày càng
hoàn thiện đồng thời cũng đang được điều chỉnh cho phù hợp với pháp luật hợp
đồng của thế giới có như vậy mới bảo đảm khả năng hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Hiện nay các hợp đồng về mua bán hàng hóa, dịch vụ chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng số các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp thực hiện, vì
trên thực tế hiện nay thì nền kinh tế dịch vụ và mua bán hàng hóa mang lại một
doanh thu khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân các nước. Với một khối lượng
hàng hóa dịch vụ khổng lồ lưu thông trên thị trường mà không có hợp đồng thì
rất dễ gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế. Trên thực tế thì vai trò của hợp đồng
là không thể phủ nhận nhưng còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện
hành lang pháp lý.
Trong công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Thăng
Long - GTC hàng năm đàm phán và kí kết một khối lượng hợp đồng tương đối
lớn, đặc biệt là các hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
3
Các hợp đồng này hàng năm đem lại cho công ty những khoản thu rất lớn
vì đây là một công ty nhà nước mà hoạt động chủ yếu là dịch vụ. Trong đó các
hợp đồng về dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng không nhỏ,gồm cả hợp đồng du lịch
mang bản chất là dân sự và cả hợp đồng du lịch mang tính chất kinh doanh
thương mại. Do hoạt động du lịch của Công ty TNNHH Nhà nước một thành
viên Thăng Long GTC là tương đối rộng nên trong phạm vi hạn hẹp của bài báo
cáo chuyên đề này tôi chỉ đề cập đến Những hợp đồng dịch vụ du lịch
mang bản chất là hợp đồng dân sự ( tức là những hợp đồng du lịch
được ký kết giữa cá nhân khách du lịch ( người tiêu dùng dịch vụ du lịch) với
một bên là đại diện Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC
Nội dung chuyên đề: “PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU
LỊCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT
THÀNH VIÊN THĂNG LONG -GTC”
Bài viết được chia làm 3 phần lớn là :
Chương I. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch.
Chương II. Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch
tại Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC.
Chương III. Nhận xét và một số kiến nghị.
Để bài viết được thành công tôi rất hi vọng nhận được sự giúp đỡ của cán
bộ công ty và giáo viên hướng dẫn thực tập chuyên đề.
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
4
CHƯƠNG I. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG.
Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí giữa các cá nhân tổ chức có năng lực
chủ thể để từ đó làm xuất hiện những quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy hợp
đồng là sự cụ thể hóa ý chí của các bên trong quan hệ giao dịch, và là căn cứ để
từ đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ.
1.1.1. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội.
Quan hệ trao đổi hàng hoá là quan hệ kinh tế giữa những người có hàng
hoá được thiết lập trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên mà hình thức thể hiện
của nó là bản giao kèo. Bản giao kèo này là hợp đồng. Quan hệ trao đổi sản
phẩm hàng hoá trở thành quan hệ pháp luật khi được pháp luật điều chỉnh và
hợp đồng trở thành hình thức pháp lý của nó. Sự ra đời của hợp đồng là đòi hỏi
khách quan của nền sản xuất hàng hoá. Đã có sản xuất hàng hoá tất yếu phải có
hợp đồng để trao đổi sản phẩm hàng hoá. Sau đó cùng với sự phát triển của xã
hội, hợp đồng phát triển cả ngoài phạm vi trao đổi hàng hoá. Người ta có thể
thoả thuận thống nhất ý chí với nhau về việc làm một việc gì hoặc không làm
một việc gì đó thì cũng là hợp đồng.
Hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân,
là cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xác lập mối quan hệ hợp tác giữa
các bên ký kết hợp đồng.
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia
nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó việc các bên thiết lập với nhau quan
hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với đời sống xã hội.
Tuy nhiên việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình
thành bởi tài sản ( vốn là hiện thân của lợi ích vật chất) không thể tự tìm đến
nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những
hành vi có ý chí của chủ thể. Mác nói rằng:
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
5
“ Tự chúng hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau
được. Muốn cho những vật đó trao đổi được với nhau, thì những người giữ
chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong hiện vật đó”.(1)
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các
chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ
có thể áp dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi
ích chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chính
đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích của toàn xã hội.
Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
chính các chủ thể kinh doanh, làm cho các kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có
thể được thực hiện nếu người sản xuất mua được nguyên vật liệu và kí được hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng cũng được cụ thể hoá,
chi tiết hoá kế hoạch sản xuất mua bán, giá cả, thời gian giao hàng… Như vậy
nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người sản xuất kinh doanh quyết định và thỏa
thuận với khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận.
Thông qua việc đàm phán kí kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt
được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực
của kế hoạch sản xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua
quá trình kí kết hợp đồng các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính toán chênh
lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh.
Thông qua hợp đồng mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ
kinh tế, xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật. Khi hợp
đồng được kí kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán
giải quyết khi có tranh chấp.
1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp
đồng.
Pháp luật đề cao nguyên tắc tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền
kinh tế thị trường. Nguyên tắc này được Hiến pháp thừa nhận. Tại Điều 15 hiến
(1) Các Mác: “Tư bản”, quyển 1, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1973, Tr.163
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
6
pháp 1992 nêu rõ: Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể
là nền tảng.(1)
Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh của mọi
công dân: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật”(2). Như vậy mọi cá nhân tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền
tham gia giao kết bất kỳ hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà không ai có
quyền ngăn cản. Nhưng bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ
thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi
ích của toàn xã hội
Như vậy tự do kinh doanh không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà nó
phải đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. Mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều
bình đẳng trước pháp luật, chịu sự quản lý của Nhà nước. Mặc dù, mọi chủ thể
trong nền kinh tế khi có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi ( khi thoả
mãn những điều kiện do pháp luật quy định) theo quy định của pháp luật thì đều
có quyền tham gia giao kết hợp đồng kinh tế nhằm mục đích nhất định mà
không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền
giao kết những hợp đồng đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những
hợp đồng khác mà pháp luật chưa có quy định. Khi tham gia vào quá trình ký
kết hợp đồng các chủ thể được tự do thể hiện ý chí của mình, tự do đưa vào hợp
đồng những nội dung, điều khoản có lợi nhất cho mình để đảm bảo khả năng
thực hiện hợp đồng và giành được ưu thế khi có tranh chấp xảy ra
Hơn nữa tại Điều 50 Bộ luật dân sự 2005 cũng đã ghi nhận quyền tự do kinh
doanh:
(1) Điều 15 Hiến pháp 1992
(2) Điều 57 Hiến pháp 1992
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
7
“Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Cá nhân có quyền lựa chọn lĩnh vực, hình thức, ngành nghề kinh doanh, lập
doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù
hợp với quy định của pháp luật”(1).
Trong quá trình giao kết hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi của mình các
bên có thể đưa vào hợp đồng những điều khoản nội dung trái pháp luật xâm hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, lợi ích công cộng và lợi ích của
toàn xã toàn xã hội.
Trong đời sống xã hội hiện nay yếu tố thoả thuận trong giao kết hợp
đồng ngày càng được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thoả thuận. Tuy
nhiên không thể suy luận ngược lại là mọi thoả thuận đều là hợp đồng.
Những thoả thuận được coi là hợp đồng nếu nó phù hợp với ý chí của các
bên, tức là sự ưng thuận đích thực của các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp
pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây phải hợp lẽ công bằng, hợp đạo đức và pháp
luật. Các hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc
mua chuộc không có sự ưng thuận đích thực, tức là có sự vô hiệu của hợp đồng.
Như vậy, một sự thoả thuận không thể hiện ý chí đích thực của các bên thì
không phát sinh quyền và nghiã vụ pháp lý của các bên. Vì vậy, Nhà nước buộc
các bên khi tiến hành giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức xã hội, pháp
luật, trật tự xã hội, trật tự công cộng.
Để hạn chế sự tự do thái quá của các chủ thể khi tham gia vào quá trình
giao kết thực hiện hợp đồng thì cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật
trong quan hệ hợp đồng. Vì sự tự do nào cũng phải nằm trong khuôn khổ nhất
định. Pháp luật là sự cụ thể hoá ý chí của Nhà nước. Bên cạnh chú ý đến quyền
lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những
người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải
“ không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Nằm trong mối quan hệ tương ứng
giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi chủ thể vừa “có quyền tự do giao kết hợp đồng”
(1) Điều 50 Bộ Luật dân sự 2005
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
8
vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội.
Lợi ích cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được
coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi chủ thể trong việc giao kết hợp đồng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không
cho phép tất cả các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng
thành phương tiện bóc lột.
Vì vậy, để bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định và
đặc biệt là hiện nay khi nước ta đã ra nhập WTO thì cần phải có một hành lang
pháp lý thông thoáng và đủ mạnh để làm kim chỉ nam cho việc giao kết và thực
hiện hợp đồng nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong
và ngoài nước nhưng đồng thời cũng ngăn chặn được các hành vi lợi dụng sức
mạnh của doanh nghiệp nước ngoài nhằm chèn ép các doanh nghiệp trong nước.
Hiện nay, hầu hết các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua hợp đồng
nên việc ban hành pháp luật về hợp đồng là hết sức cần thiết trong giai đoạn
hiện nay nhằm đáp ứng các yêu cầu khách quan của nền sản xuất hàng hoá, vì
khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển thì nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa
các tổ chức sản xuất, kinh doanh với nhau ngày càng gia tăng. Điều này không
tránh khỏi việc cần phải có hình thức, biện pháp để ghi nhận, bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia vào việc trao đổi những hàng hoá đó. Chính vì vậy việc
ban hành pháp luật về hợp đồng trong đó nêu rõ những thoả thuận của các bên
phải thực hiện và việc giải quyết nếu có những hành vi vi phạm các thoả thuận
đó.
1.1.3. Nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng, khi giao kết các bên tham gia có vai trò quan
trọng trong việc xác định xem hợp đồng đó áp dụng luật nào để điều chỉnh.
Nguyên tắc điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng có thể do các bên tự
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi tham gia vào quan hệ hợp
đồng các bên chủ thể đều có vị trí ngang hàng nhau không bên nào được đe dọa
bên nào nhằm mục đích cưỡng chế bên kia giao kết thực hiện hợp đồng. Vì vậy
trong quá trình đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng các bên phải đảm bảo
nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, hợp tác đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên tự do
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
9
giao kết hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đối với hợp đồng thì căn cứ để ràng buộc các bên là những gì các bên đã
cam kết, và các văn bản pháp luật có liên quan. Việc lựa chọn văn bản pháp luật
nào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng phải căn cứ vào sự lựa chọn và tính chất
của hợp đồng đó. Ngoài việc áp dụng luật chung là Bộ Luật dân sự thì đối với
từng loại hợp đồng cụ thể còn có những văn bản luật chuyên ngành điều
chỉnh.Vì vậy đối với từng loại hợp đồng nguyên tắc áp dụng pháp luật theo thứ
tự ưu tiên như sau: Nếu có luật chuyên ngành điều chỉnh thì áp dụng luật
chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành và các lĩnh vực pháp luật khác có quy
định mâu thuẫn thì áp dụng luật chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành không có
quy định thì áp dụng Bộ luật dân sự 2005. Trong trường hợp có điều ước quốc
tế mà Việt Nam đã là thành viên có quy định áp dụng điều ước quốc tế thì áp
dụng điều ước quốc tế đó, mặc dù nó trái với pháp luật trong nước.
Ngoài ra các bên có thể áp dụng các tập quán và các quy định tương tự
của pháp luật nếu pháp lụât không có quy định và các bên không có thỏa thuận
(Điều 3 Luật dân sự).
Trong phạm vi Chuyên đề tốt nghiệp này tôi chỉ đế cập đến mảng hợp
đồng dịch vụ du lịch với tư cách là một hợp đồng dân sự nên pháp luật áp
dụng cho hợp đồng dịch vụ du lịch là Bộ luật dân sự 2005, ngoài ra hoạt động
du lịch còn chịu sự điều chỉnh của Luật du lịch 2005. Nếu có những hoạt động
du lịch nào mà Bộ lụât dân sự 2005 không quy định hoặc quy định trái với văn
bản của chuyên ngành du lịch thì áp dụng Luật du lịch 2005, Ngoài ra hoạt động
du lịch còn liên quan đến hoạt đồng xuất nhập cảnh của người và hành lý nên
hợp đồng dịch vụ du lịch còn chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh xuất nhập cảnh
năm 2000.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.
1.2.1. Hợp đồng dân sự.
1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng dân sự.
1.2.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng dân sự.
Hợp đồng ra đời từ nhu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh và
lưu thông hàng hoá, nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
10
dân.
Hợp đồng bảo đảm cho việc duy trì một nền kinh tế thị trường vận hành
đúng quy luật. Trong nền kinh tế hàng - tiền thì mọi thoả thuận giữa các bên
trong quan hệ kinh tế đều phải hết sức rõ ràng và minh bạch có như vậy mới bảo
đảm cho việc thực hiện hợp đồng và là căn cứ cho việc xác định trách nhiệm
của các bên khi xảy ra tranh chấp liên quan đến hợp đồng.
Từ vai trò quan trọng đó của hợp đồng thì ở mọi Nhà nước đều có những
quy định về hợp đồng nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng , tránh
tình trạng các bên tuỳ tiện đưa vào hợp đồng những nội dung vi phạm pháp luật
và trái với nguyên tắc hoạt động của Nhà nước.
Theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005, tại điều 388 hợp đồng được
hiểu như sau: “ Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về viêc xác
lập, thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”(1). Hợp đồng dân sự là một
loại hợp đồng nói chung và được hiểu theo nghĩa rộng. Hợp đồng là sự thoả
thuận giữa các bên, tức là sự thống nhất về mặt ý chí của các chủ thể khi tham
gia giao kết hợp đồng. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không
được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ hợp đồng để
qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau
được. Vì vậy, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì
quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là
quan hệ hợp đồng dân sự.
Như vậy cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thoả
thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực
pháp luật ( tức là được pháp luật bảo vệ ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý
chí của Nhà nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng
sự tự do đó được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của
xã hội và lợi ích công cộng.
Khái niệm hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều khía cạnh
khác nhau.Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự là do các quy
định của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà
(1) Điều 388 BLDS 2005
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Luật kinh tế
SVTH: Nguyễn Thị Yến
11
trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng
nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định.
Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển
giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận
để thay đổi chấm dứt các nghĩ vụ đó. Hợp đồng dân sự và pháp luật về hợp
đồng dân sự là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Hợp đồng dân sự theo
nghĩa chủ quan là một quan hệ được hình thành từ sự thoả thuận của các bên để
thoả mãn nhu cầu trao đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng dân
sự là sự thừa nhận, là yêu cầu của Nhà nước đối với giao lưu dân sự đó.
a). Đặc điểm của hợp đồng dân sự.
- Chủ thể của hợp đồng dân sự: Chủ thể tham gia vào hợp đồng dân sự là
những người tham gia vào quan hệ đó. Vì hợp đồng dân sự chính là sự cụ thể
hóa của các quan hệ pháp luật dân sự. Nên chủ thể của hợp đồng dân sự là chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy chủ thể của hợp đồng dân sự gồm cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước cũn