1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngành dịch vụ bán lẻ là một trong những ngành có đóng góp lớn vào nền
kinh tế quốc gia Việt Nam với trên 15% vào GDP hàng năm, sử dụng trên 5,4
triệu lao động, tức gần 12% lực lượng lao động xã hội (Số liệu năm 2009),
doanh số bán lẻ đạt trên 50 tỉ USD năm 2009. Không chỉ vậy, thị trường bán lẻ
Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn định hình và phát triển khi mà các kênh
bán lẻ truyền thống vẫn chiếm trên 70% thị phần của cả ngành bán lẻ, các kênh
phân phối hiện đại chỉ chiếm 22% doanh thu cả ngành. Trong khi đó, con số
này ở các nước khác là 51% tại Trung Quốc, 34% tại Thái Lan, 60% tại
Malaysia và 90% tại Singapore cho kênh bán lẻ hiện đại. Điều đó cho thấy,
ngành dịch vụ bán lẻ đặc biệt là kênh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam vẫn còn phải
phát triển nhiều hơn nữa, và sẽ còn tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế
quốc gia.
Kể từ ngày 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam chính thức mở cửa cho
các doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài. Trước đó, rất nhiều nhà bán
lẻ nước ngoài đã có mặt ở Việt Nam như Metro Cash & Carry, Big C. Cho tới
nay thì đã có trên 10 nhà phân phối lớn trên thế giới có mặt tại Việt Nam. Hơn
thế nữa, các nhà bán lẻ nước ngoài đều đã và đang rất thành công trong việc
chinh phục thị trường bán lẻ nước ta. Điều đó đã tạo ra sức ép cạnh tranh rất
lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại. Nhất là khi đã số nhà bán lẻ nội địa
chỉ có quy mô nhỏ, và rất nhỏ, chỉ một số ít có khả năng cạnh tranh với doanh
nghiệp ngoại như Sài Gòn Co.op Mart, Phú Thái, Hapro, Sài Gòn Nguyễn Kim,
Trần Anh . nhưng vẫn ở thế yếu hơn.
Một ngành dịch vụ có tầm quan trọng như vậy đối với nền kinh tế quốc
gia mà lại có nguy cơ rơi vào tai của các doanh nghiệp nước ngoài, đó là điều
mà không ai mong muốn. Làm sao để các doanh nghiệp nội có thể đủ sức cạnh
tranh với doanh nghiệp ngoại, làm sao để thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ do
doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh? Đó là một câu hỏi đã và đang là m nhức
nhối nhiều nhà kinh tế nước ta. Nhận biết được tình hình đó, nhóm chúng tôi đã
quyết định lấy đề tài "Phát triển doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện
cạnh tranh và hội nhập" làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, do thời gian có hạn, cùng với đó năng lực
nghiên cứu còn nhiều yếu kém, bài nghiên cứu của chúng tôi khó tránh khỏi
những sai sót cả về hình thức lẫn nội dung. Bởi vậy rất mong nhận được sự
thông cảm và các ý kiến đóng góp và giúp đỡ của mọi người, để c húng tôi có
thể tiếp tục hoàn thiện hơn nữa mong muốn góp sức cho doanh nghiệp bán lẻ
nội địa Việt Nam trong thời hội nhập.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Sau hơn 6 tháng tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm đã nắm được khá rõ
những đặc điểm của thị trường bán lẻ cũng như thực trạng của các doanh
nghiệp bán lẻ ở Việt Nam. Từ đó, nhóm đã tiếp tục nghiên cứu những hướng đi
cần thiết cho các nhà bán lẻ nội địa và đề ra các giải pháp cụ thể để giúp các
doanh nghiệp đạt được các mục tiêu, hướng đi đó. Tuy nhiên, do thời gian có
hạn, nhóm không thể kịp hoàn thiện mọi giải pháp đã nghiên cứu, cho nên
trong khuôn khổ bài viết, nhóm chỉ đề ra những giải pháp đã được nghiên cứu
cụ thể và khả thi nhất.
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu rõ về thực trạng các của nhà bán lẻ nội
địa, đưa ra những nhận xét và từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu tài liệu, tổng hợp phân
tích lý thuyết, xây dựng giả thuyết, phương pháp phân tích SWOT.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu chính của nhóm thị trường bán
lẻ Việt Nam, tập trung vào hệ thống bán lẻ hiện đại Việt Nam.
Về mặt thời gian, nhóm nghiên cứu chủ yếu trong khoảng thời gian 10
năm trở lại đây.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Trình bày được cụ thể đặc điểm thị trường bán lẻ Việt Nam, thực trạng
hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong hội nhập
Đưa ra các nhận xét, đánh giả của các chuyên gia cũng như ý kiến đánh
giá của nhóm về các thực trạng đã nghiên cứu.
Thành công trong việc xây dựng định hướng phát triển cho các nhà bán
lẻ nội địa, đưa ra được một số giải pháp cụ thể để giúp các doanh nghiệp đạt
được các định hướng đã nêu.
88 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2189 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------
CÔNG TRÌNH THAM DỰ CUỘC THI
Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 2010
Tên công trình: PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP
Thuộc nhóm ngành: XH1b
Họ và tên sinh viên: Ngô Hoàng Quỳnh Anh. Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 16 Khoá: 47 Khoa: Kinh tế và kinh doanh quốc tế Năm thứ : 2/4
Ngành học : KTĐN
Họ và tên sinh viên: Thái Ngọc Anh Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 16 Khoá: 47 Khoa: Kinh tế và kinh doanh quốc tế Năm thứ : 2/4
Ngành học : TMQT
Người hướng dẫn : ThS Hoàng Xuân Bình
Hà Nội - 2010
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngành dịch vụ bán lẻ là một trong những ngành có đóng góp lớn vào nền
kinh tế quốc gia Việt Nam với trên 15% vào GDP hàng năm, sử dụng trên 5,4
triệu lao động, tức gần 12% lực lượng lao động xã hội (Số liệu năm 2009),
doanh số bán lẻ đạt trên 50 tỉ USD năm 2009. Không chỉ vậy, thị trường bán lẻ
Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn định hình và phát triển khi mà các kênh
bán lẻ truyền thống vẫn chiếm trên 70% thị phần của cả ngành bán lẻ, các kênh
phân phối hiện đại chỉ chiếm 22% doanh thu cả ngành. Trong khi đó, con số
này ở các nước khác là 51% tại Trung Quốc, 34% tại Thái Lan, 60% tại
Malaysia và 90% tại Singapore cho kênh bán lẻ hiện đại. Điều đó cho thấy,
ngành dịch vụ bán lẻ đặc biệt là kênh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam vẫn còn phải
phát triển nhiều hơn nữa, và sẽ còn tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế
quốc gia.
Kể từ ngày 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam chính thức mở cửa cho
các doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài. Trước đó, rất nhiều nhà bán
lẻ nước ngoài đã có mặt ở Việt Nam như Metro Cash & Carry, Big C... Cho tới
nay thì đã có trên 10 nhà phân phối lớn trên thế giới có mặt tại Việt Nam. Hơn
thế nữa, các nhà bán lẻ nước ngoài đều đã và đang rất thành công trong việc
chinh phục thị trường bán lẻ nước ta. Điều đó đã tạo ra sức ép cạnh tranh rất
lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại. Nhất là khi đã số nhà bán lẻ nội địa
chỉ có quy mô nhỏ, và rất nhỏ, chỉ một số ít có khả năng cạnh tranh với doanh
3
nghiệp ngoại như Sài Gòn Co.op Mart, Phú Thái, Hapro, Sài Gòn Nguyễn Kim,
Trần Anh ... nhưng vẫn ở thế yếu hơn.
Một ngành dịch vụ có tầm quan trọng như vậy đối với nền kinh tế quốc
gia mà lại có nguy cơ rơi vào tai của các doanh nghiệp nước ngoài, đó là điều
mà không ai mong muốn. Làm sao để các doanh nghiệp nội có thể đủ sức cạnh
tranh với doanh nghiệp ngoại, làm sao để thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ do
doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh? Đó là một câu hỏi đã và đang làm nhức
nhối nhiều nhà kinh tế nước ta. Nhận biết được tình hình đó, nhóm chúng tôi đã
quyết định lấy đề tài "Phát triển doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện
cạnh tranh và hội nhập" làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Trong quá trình nghiên cứu, do thời gian có hạn, cùng với đó năng lực
nghiên cứu còn nhiều yếu kém, bài nghiên cứu của chúng tôi khó tránh khỏi
những sai sót cả về hình thức lẫn nội dung. Bởi vậy rất mong nhận được sự
thông cảm và các ý kiến đóng góp và giúp đỡ của mọi người, để chúng tôi có
thể tiếp tục hoàn thiện hơn nữa mong muốn góp sức cho doanh nghiệp bán lẻ
nội địa Việt Nam trong thời hội nhập.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Sau hơn 6 tháng tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm đã nắm được khá rõ
những đặc điểm của thị trường bán lẻ cũng như thực trạng của các doanh
nghiệp bán lẻ ở Việt Nam. Từ đó, nhóm đã tiếp tục nghiên cứu những hướng đi
cần thiết cho các nhà bán lẻ nội địa và đề ra các giải pháp cụ thể để giúp các
doanh nghiệp đạt được các mục tiêu, hướng đi đó. Tuy nhiên, do thời gian có
hạn, nhóm không thể kịp hoàn thiện mọi giải pháp đã nghiên cứu, cho nên
trong khuôn khổ bài viết, nhóm chỉ đề ra những giải pháp đã được nghiên cứu
cụ thể và khả thi nhất.
3. Đối tƣợng, mục đích nghiên cứu
4
Đối tượng nghiên cứu: các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu rõ về thực trạng các của nhà bán lẻ nội
địa, đưa ra những nhận xét và từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu tài liệu, tổng hợp phân
tích lý thuyết, xây dựng giả thuyết, phương pháp phân tích SWOT.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu chính của nhóm thị trường bán
lẻ Việt Nam, tập trung vào hệ thống bán lẻ hiện đại Việt Nam.
Về mặt thời gian, nhóm nghiên cứu chủ yếu trong khoảng thời gian 10
năm trở lại đây.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Trình bày được cụ thể đặc điểm thị trường bán lẻ Việt Nam, thực trạng
hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong hội nhập
Đưa ra các nhận xét, đánh giả của các chuyên gia cũng như ý kiến đánh
giá của nhóm về các thực trạng đã nghiên cứu.
Thành công trong việc xây dựng định hướng phát triển cho các nhà bán
lẻ nội địa, đưa ra được một số giải pháp cụ thể để giúp các doanh nghiệp đạt
được các định hướng đã nêu.
5
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BÁN LẺ VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ NỘI ĐỊA
1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1.1 Thị trƣờng bán lẻ Việt Nam là một môi trƣờng đầy tiềm năng
Kể từ khi đất nước ta thực hiện chính sách mở cửa thị trường, nền kinh tế
đã từng bước tăng trưởng và phát triển. Sản xuất phát triển, thu nhập của người
dân ngày một tăng, nhu cầu tiêu dùng cũng vì thế trở nên đa dạng. Hàng hóa trên
thị trường luôn được thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Lĩnh vực
phân phối bán lẻ của Việt Nam cũng đang trên đà tăng trưởng mạnh. Trong vòng
10 năm từ 1996 tới 2006, doanh thu bán lẻ đã tăng 3 lần, đạt 36.3 tỷ USD vào
năm 2006. Tốc độ tăng trưởng trong những năm qua cũng khá cao, từ năm 2002
đến nay luôn đạt trên 10%/năm:
Biều đồ 1: Doanh thu và tốc độ tăng trƣởng trong lĩnh vực phân phối bán lẻ
6
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Tỷ
U
SD
0
5
10
15
20
25
%
Doanh thu bán lẻ 13 13 13.2 14.2 15.2 16.3 18.2 21.3 25.3 30.2 36.3
Tỷ lệ tăng trưởng hàng
năm
19 0.3 1.8 7.5 7 7 12.2 17 18.5 19.5 20.2
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nguồn: Viện Nghiên cứu kinh tế TP Hồ Chí Minh
Tiến sỹ Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch thường trực, Tổng thư ký Hiệp
hội các nhà bán lẻ Việt Nam AVR cho biết, năm 2009, doanh số bán lẻ hàng hóa
và dịch vụ đạt gần 1.200 tỷ đồng, tăng 18,6% so với năm 2008. 5 tháng đầu năm
2010, doanh số đạt 621.416 tỷ đồng, tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước. Trên
đà khởi sắc của thị trường tiêu dùng nội địa, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán
lẻ và dịch vụ nhận định sẽ còn tiếp tục tăng trong năm 2010, ước tính đạt khoảng
1.440 nghìn tỷ đồng. Dựa vào triển vọng này, Công ty nghiên cứu thị trường toàn
cầu RNCOS (Mỹ) dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ đạt doanh số 85 tỷ USD
vào năm 2012.
“Năm 2010 là năm có rất nhiều triển vọng với thị trường bán lẻ Việt Nam,
thể hiện qua việc Việt Nam ngày càng trở thành một điểm kinh doanh hấp dẫn
tại châu Á với tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững và nhu cầu tiêu dùng ổn định
trong thời gian dài”. Đây là khẳng định của Tiến sỹ Matthias Duehn – Giám đốc
7
EuroCham Hà Nội. Thật vậy, sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam ngày
càng tăng nhanh trong những năm gần đây. Theo xếp hạng của Công ty tư vấn
Mỹ A.T.Kearney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu GRDI, Việt
Nam đang là một trong những nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới.
Bảng 1: Bảng tổng hợp xếp hạng chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu của
Việt Nam giai đoạn 2004-2009
Năm Tổng điểm Xếp hạng
2004 76 7
2005 79 8
2006 84 3
2007 74 4
2008 88 1
2009 55 6
Nguồn: A.T.Kearney, Windows of Hope for Global Retailers, 2009
Không những thế, chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam cũng ở
mức cao kỷ lục là 118 điểm và đứng thứ 5 thế giới, trong khi mức trung bình của
thế giới chỉ là 97 điểm. Kết quả nghiên cứu của Công ty Điều tra thị trường
Cimigo mới đây cho biết, trong khoảng vài tháng đầu năm 2010, chỉ số niềm tin
của người tiêu dùng Việt Nam tăng khoảng 15% so với thời điểm trước đó. Khi
niềm tin của người tiêu dùng tăng thì mức tiêu dùng trong nước sẽ tăng theo, và
thị trường bán lẻ sẽ sôi động và hứa hẹn những khởi sắc.
Sở dĩ có những kết quả ấn tượng như vậy là vì Việt Nam có mức tăng
trưởng GDP cao và ổn định trong nhiều năm liên tiếp. Thực tế là Việt Nam là đất
nước duy nhất trên thế giới có GDP/người tăng gấp đôi trong vòng 6 năm. Bên
cạnh đó, Việt Nam có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và đặc biệt là dân số
đông, nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng cao và đa dạng. Việt Nam sở
8
hữu một thị trường tiêu thụ với quy mô rộng lớn, khoảng 86 triệu dân, dân số trẻ
với hơn một nửa dân số có độ tuổi dưới 30 và thu nhập của người dân ngày càng
cao. Sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam còn do áp lực cạnh tranh giữa
các hệ thống bán lẻ chưa nhiều và Việt Nam có đến 65% dân số là người tiêu
dùng trẻ, chi tiêu mạnh tay. Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở
lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp trung lưu thu nhập trên 500USD/tháng
chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị. Trong các xu hướng phát triển thị
trường bán lẻ, việc nhà phân phối thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa nhà sản xuất
và người tiêu dùng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Điều đó có nghĩa phải đặc
biệt chú trọng yếu tố người tiêu dùng. Theo khảo sát, 70% thu nhập của người
Việt Nam dành cho mua sắm, do đó người tiêu dùng với tố chất phong phú, nhạy
bén, thông thái sẽ là nhân tố quan trọng định hướng cho ngành công nghiệp bán
lẻ và sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam. [29]
Tiềm năng đầy hứa hẹn đó sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của lĩnh vực
phân phối bán lẻ Việt Nam, đặc biệt khi nó kết hợp với việc mở cửa thị trường
bán lẻ sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
1.2 Sự mở cửa của thị trƣờng bán lẻ Việt Nam theo lộ trình cam kết với
WTO
1.2.1 Cơ hội đã mở ra cho bán lẻ nước ngoài
Tính đến cuối năm 2008, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 160
nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã kí kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia
và vùng lãnh thổ, 51 hiệp định bảo hộ đầu tư và 41 hiệp định tránh đánh thuế hai
lần với nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, đối với ngành dịch
vụ phân phối, chúng ta mới chỉ có cam kết cụ thể với Mỹ trong Hiệp định
Thương mại Việt – Mỹ (BTA), với Nhật Bản trong Hiệp định Bảo hộ và Xúc
tiến đầu tư Việt Nam – Nhật Bản, cùng một số dự án thí điểm, thử nghiệm trong
9
khuôn khổ hợp tác song phương, đa phương. Cam kết của Việt Nam khi đàm
phán gia nhập WTO cuối năm 2006 đối với dịch vụ phân phối, trong đó có hoạt
động bán lẻ là một bước tiến lớn để chúng ta hội nhập sâu rộng hơn nữa thị
trường thương mại quốc tế, đồng thời mở ra cơ hội đầu tư vào thị trường đầy
tiềm năng của chúng ta cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. [20]
1.2.1.1 Cam kết mở cửa dịch vụ phân phối bán lẻ của Việt Nam với WTO
Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO được xây dựng theo Hiệp định
Thương mại Việt – Mỹ (BTA). Trong thỏa thuận, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành
và 110 phân ngành dịch vụ. Đối với dịch vụ phân phối, cam kết cụ thể như sau:
[1]
Về hình thức hiện diện:
Kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (ngày 11/01/2007) đến trước
ngày 01/01/2008, Việt Nam cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài
được liên doanh với đối tác Việt Nam nhưng tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài
không được vượt quá 49%.
Từ 01/01/2009, doanh nghiệp phân phối nước ngoài được thành lập doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, riêng ngành dịch vụ phân phối bán lẻ, Việt Nam đưa ra hạn chế
khá chặt chẽ về việc mở thêm điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thông qua kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT - Economic Needs Test). Việc
xem xét mở cửa điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ thứ nhất phải tuân theo một quy
trình xét duyệt và cấp phép công khai dựa trên các tiêu chí khách quan như: số
lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong một khu vực địa lý, sự ổn
định của thị trường và mật độ dân cư, sự phù hợp với quy hoạch.
Về mức độ mở cửa thị trường
10
Việt Nam cam kết tất cả các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại
của WTO, bao gồm: dịch vụ bán lẻ, dịch vụ bán buôn, dịch vụ đại lý hoa hồng và
dịch vụ nhượng quyền thương mại. Về diện mặt hàng:
Danh mục hàng hóa loại trừ vĩnh viễn: những mặt hàng mà nhà đầu tư
nước ngoài sẽ không bao giờ được quyền tham gia phân phối trên lãnh thổ Việt
Nam như: lúa, gạo, đường, thuốc lá và xì gà, dầu thô và dầu qua chế biến, dược
phẩm, thuốc nổ, sách - báo - tạp chí, kim loại quý và đá quý, vật phẩm đã ghi
hình trên mọi chất liệu (băng, đĩa...).
Danh mục hàng hóa loại trừ có thời hạn: nhà đầu tư nước ngoài được
quyền phân phối theo lộ trình mà Việt Nam đã cam kết như: máy kéo - phương
tiện cơ giới - ô tô con và xe máy (từ 01/01/2009); rượu, xi măng và clinke, phân
bón, sắt thép, giấy, lốp xe (trừ lốp máy bay), thiết bị nghe nhìn (từ 01/01/2010).
Ngoài ra, Việt Nam cũng cho phép hình thức bán hàng qua mạng từ nước
ngoài theo phương thức 1 (cung cấp qua biên giới) bao gồm mua bán hàng hóa
qua mạng hoặc đặt hàng qua thư và chỉ cam kết cho các nhà phân phối nước
ngoài được bán các loại hàng hóa: các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân, các
chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì
mục đích thương mại.
Có thể nói, những cam kết về mở cửa dịch vụ phân phối bán lẻ là một
trong những nỗ lực và quyết tâm lớn nhất của nước ta, bởi lẽ dịch vụ bán lẻ là
một ngành hàng khá nhạy cảm và có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cho phép các tập đoàn phân
phối nước ngoài thành lập liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
nhưng mới chỉ mang tính chất thí điểm. Lộ trình cam kết mở cửa dịch vụ bán lẻ
của Việt Nam mở ra môi trường kinh doanh thông thoáng và minh bạch hơn cho
các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó, đem lại nhiều lựa chọn hơn cho người tiêu
11
dùng, và là động lực các cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vươn lên cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài.
1.2.1.2 Sự thâm nhập của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài vào thị trường
bán lẻ Việt Nam
Nhà cung cấp dịch vụ phân phối nước ngoài đầu tiên bước chân vào thị
trường bán lẻ Việt Nam là Cora (sau đó bán cho thương hiệu Big C của tập đoàn
Casino Pháp) với trung tâm phân phối tại Đồng Nai năm 1998. Đến nay, Big C
đã có 10 trung tâm tại 4 thành phố lớn của Việt Nam. Tiếp bước là Metro với mô
hình Cash & Carry (khách hàng trả bằng tiền mặt và tự vận chuyển) nổi tiếng.
Ngày 28/2/2002, Metro Bình Phú tại thành phố Hồ Chí Minh khai trương. Cho
đến nay, Metro đã có đến 8 trung tâm tại 5 thành phố lớn. Parkson của tập đoàn
Lion, Malaysia cũng gia nhập vào năm 2004 với Parkson Saigon Tourist Plaza ở
thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 lần lượt thêm 2 trung tâm nữa ở Hải Phòng
và thành phố Hồ Chí Minh và năm 2008 với Parkson Việt Tower (Hà Nội).
Ngoài ra, còn rất nhiều đại gia bán lẻ khác của nước ngoài như Zen Plaza, Best
Denki của Nhật Bản, Diamond Plaza của Hàn Quốc... cũng tham gia vào thị
trường bán lẻ cao cấp. Mới đây nhất, ngày 01/07/2010, Lotte Mart - công ty con
của tập đoàn Lotte (Hàn Quốc) cũng đã chính thức công bố khai trương Trung
tâm thương mại Lotte thứ 2 tại Việt Nam, tại đường Lê Đại Hành, thành phố Hồ
Chí Minh. Như vậy, có thể thấy rằng các nhà bán lẻ nước ngoài đều bước đầu rất
thành công khi họ đặt chân vào thị trường bán lẻ Việt Nam. [30]
1.2.2 Thời gian ngắn cho các doanh nghiệp bán lẻ nội địa trước sự đổ bộ của
các đại gia bán lẻ thế giới
Sau hơn một năm mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp bán lẻ 100%
vốn nước ngoài, đến thời điểm này các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã không “ồ ạt”
xâm nhập thị trường Việt Nam như dự đoán. Tính đến hết năm 2006, tức là năm
12
cuối cùng trước khi Việt Nam chính thức là thành viên WTO, cả nước có 21 dự
án có vốn đầu tư nước ngoài và ngành dịch vụ phân phối bán lẻ với tổng số
473.095.206 USD, quy mô bình quân 22.528.343 USD/dự án. Riêng năm 2006
có đến 7 dự án được phê duyệt với tổng số vốn đầu tư lên tới 106.450.000 USD.
Tuy nhiên, sau hơn 2 năm Việt Nam gia nhập WTO, nhìn chung quy mô của các
dự án lại tương đối nhỏ và chưa thực sự như mong đợi. Số vốn FDI đầu tư vào
phân phối bán lẻ còn rất khiêm tốn:
Bảng 2: FDI đăng ký vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam giai đoạn 1996-
2009
Năm
Tổng số vốn đầu tư
(USD)
Số dự án
Trung bình vốn đầu
tư/dự án (USD/dự
án)
1996 59.000.000 2 29.500.000
1997 65.975.000 1 65.975.000
1998 12.800.700 2 6.400.350
1999 35.000.000 2 17.500.000
2000 0 0 0
2001 121.200.000 3 40.400.000
2002 0 0 0
2003 300.000 1 300.000
2004 72.369.506 3 24.123.168,67
2005 0 0 0
2006 106.450.000 7 15.207143
2007* 13.900.000 4 3.475.000
2008 34.218.000 6 5.703.000
13
3/2009 8.553.450 2 4.276.725
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư
* Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
Theo bảng 2, năm 2008 là năm có số vốn đầu tư cũng như số dự án nhiều
nhất sau khi gia nhập WTO. Sở dĩ như vậy là vì 2008 là năm mà một số văn bản
pháp lý của Việt Nam về vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thị trường bán lẻ
tương đối hoàn thiện hơn so với năm đầu tiên gia nhập WTO (2007). Hơn thế, sự
phát triển kinh tế trong những năm trước đó, cộng với tiềm năng phát triển ngành
bán lẻ tại Việt Nam cũng là những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư nước ngoài
quyết định đầu tư nhiều hơn vào thị trường phân phối bán lẻ còn non trẻ của Việt
Nam.
Tuy nhiên, trong 3 tháng đầu năm 2009, sau khi Việt Nam thực hiện cam
kết WTO mở cửa toàn bộ thị trường bán lẻ và không hạn chế tỷ lệ vốn góp đối
với các doanh nghiệp nước ngoài thì số dự án đầu tư cũng như số vốn đầu tư thu
được lại khá nhỏ. Điều này có thể lý giải do tình hình suy thoái kinh tế thế giới
khiến các doanh nghiệp e ngại khi đầu tư vào thị trường mới. Bên cạnh đó, cũng
do tâm lý thăm dò của các nhà đầu tư nước ngoài khi thị trường Việt Nam bắt
đầu mở cửa. Họ xem xét tình hình, nghiên cứu thị trường tiêu dùng và chờ đợi cơ
hội thích hợp nhất để thâm nhập vào thị trường bán lẻ nước ta một cách mạnh
mẽ. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất cản bước các tập đoàn bán lẻ nước
ngoài là do Việt Nam áp dụng công cụ Kiểm tra nhu cầu kinh tế ENT, một công
cụ đặc biệt để hạn chế tiếp cận thị trường trong khuôn khổ WTO. Theo đó, việc
thành lập các điểm bán lẻ ngoài điểm đầu tiên sẽ được xem xét theo từng trường
hợp cụ thể và cơ quan cấp phép địa phương có quyền từ chối cấp phép nếu cho
rằng chưa cần. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất nước Mỹ Wal-mart khẳng định rằng họ
chỉ có thể vào Việt Nam khi chắc chắn có thể mở nhiều hơn một cơ sở phân
14
phối. Hiện nay, theo thống kê của WTO, có hơn 90 quốc gia áp dụng ENT nhưng
các nước chỉ sử dụng ENT cho một số mặt hàng hoặc địa phương nhất định chứ
không phủ khắp toàn bộ lĩnh vực bán lẻ như Việt Nam. Ví dụ điển hình là Hàn
Quốc chỉ yêu cầu ENT với các cửa hàng bán lẻ thịt động vật. Bên cạnh đó, danh
mục hàng hóa loại trừ của Việt Nam cam kết với WTO cũng là một rào cản lớn
cho các nhà bán lẻ nước ngoài. Họ chỉ được phân phối một số mặt hàng nhất
định, lại thường xuyên được giám sát bởi Chính phủ Việt Nam. Quy định này
cùng với một số giới hạn hàng hóa trong cam kết của Việt Nam khi gia nhập
WTO đã phần nào cản trở các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài thâm nhập
mạnh mẽ vào thị trường bán lẻ Việt Nam trong ít nhất 10 năm nữa.
Như vậy, đây chính là cơ hội và khoảng trống về thời gian