Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong năm 2010 vừa qua. Mặc dù vẫn phải chịu nhiều bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn thế giới, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn có những bước phát triển nhất định.Điều đó có thể nói là do nước ta có một số lợi thế so sánh mang lại sự cạnh tranh và những thuận lợi cho nước ta trong quá trình phát triển kinh tế và vươn ra thế giới.Bên cạnh đó kinh tế Việt Nam cũng được coi là một nền kinh tế tăng trưởng “nóng” vì vậy mà có thể nói là chúng ta cần xem xét liệu tăng trưởng “nóng” như vậy là dấu hiệu tốt hay không tốt.Những bất lợi nào ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay? Những thuận lợi nào giúp nước ta ngày càng phát triển? Đây chính là vấn đề về lợi thế so sánh.
Mỗi một quốc gia một vùng miền đều có một số lợi thế so sánh khác nhau vì vậy mà cũng có những bước phát triển khác nhau.
45 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 10919 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế Việt Nam theo lợi thế so sánh: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu 2
A. Cơ sở lý luận 3
I.Một số quan điểm về lợi thế so sánh 3
1.Lợi thế so sánh theo quan điểm của David Ricardo 3
2.Lợi thế so sánh theo một số quan điểm hiện đại 5
2.1 Lợi thế so sánh theo mô hình của trường Đại học Stanford Hoa kỳ 5
2.2 Lợi thế so sánh theo mô hình đàn nhạn bay ( The flying geese model) 5
II.Đánh giá lợi thế so sánh theo các quan điểm 8
1.Đánh giá lợi thế so sánh theo quan điểm của David Ricardo 8
2. Đánh giá lợi thế so sánh theo quan điểm hiện đại 8
3 Phân tích một ví dụ về lợi thế so sánh của David Ricardo 9
4. Đánh giá về lợi thế so sánh theo các quan điểm của David Ricardo ở Việt Nam 11
B.Thực trạng ở Việt Nam 12
I. Những đặc điểm chung để phát triển kinh tế Việt Nam 12
II.Những lợi thế so sánh của Việt Nam 14
1.Những lợi thế so sánh tự nhiên 14
2.Những lợi thế so sánh tự tạo 17
III.Những bất lợi của Việt Nam 26
1.Những bất lợi về điều kiện tự nhiên 26
2.Những bất lợi về điều kiện tự tạo 26
IV. Phân tích ví dụ về lợi thế cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam 29
1. Những lợi thế. 29
2.Những bất lợi. 30
3.Một số ví dụ về hàng nông sản 30
C. Nhận xét và một số giải pháp để phát triển kinh tế theo lợi thế so sánh Ở Việt Nam 33
I. Nhận xét 33
1.Ưu điểm về lợi thế kinh tế ở Việt Nam 34
2.Nhược điểm về lợi thế kinh tế ở Việt Nam 36
II.Một số giải pháp và kiến nghị 39
Kết Luận 45
Lời Mở Đầu
Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong năm 2010 vừa qua. Mặc dù vẫn phải chịu nhiều bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn thế giới, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn có những bước phát triển nhất định.Điều đó có thể nói là do nước ta có một số lợi thế so sánh mang lại sự cạnh tranh và những thuận lợi cho nước ta trong quá trình phát triển kinh tế và vươn ra thế giới.Bên cạnh đó kinh tế Việt Nam cũng được coi là một nền kinh tế tăng trưởng “nóng” vì vậy mà có thể nói là chúng ta cần xem xét liệu tăng trưởng “nóng” như vậy là dấu hiệu tốt hay không tốt.Những bất lợi nào ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay? Những thuận lợi nào giúp nước ta ngày càng phát triển? Đây chính là vấn đề về lợi thế so sánh.
Mỗi một quốc gia một vùng miền đều có một số lợi thế so sánh khác nhau vì vậy mà cũng có những bước phát triển khác nhau.Nhằm mục đích tìm hiểu rõ hơn lợi thế so sánh của Việt Nam và cũng nhờ những tìm hiểu này để có thể phần nào đó giúp ích hoặc đóng góp cho bước phát triển của đất nước nên chúng em xin được lựa chọn và trình bày đề tài : “ Phát triển kinh tế Việt Nam theo lợi thế so sánh.Thực trạng và giải pháp”.
Chúng em xin được chân thành cám ơn Thầy giáo bộ môn Kinh tế vĩ mô đã giúp đỡ chúng em trong quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài này.
A. Cơ sở lý luận
I.Một số quan điểm về lợi thế so sánh
1.Lợi thế so sánh theo quan điểm của David Ricardo
Theo quan điểm của nhà Kinh tế học Người Anh David Ricardo (1772-1823), người khởi xướng những lý luận về lợi thế so sánh đã chỉ ra rằng : sự chuyên môn hóa trong hoạt động sản xuất và trao đổi thương mại đem lại lợi ích cho tất cả những người cùng trao đổi với nhau. Mỗi nền kinh tế địa phương ắt sẽ có lợi trong việc chuyên môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh cho dù đó là nguồn nhân công dồi dào hay rẻ tiền, hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng về năng lượng: than đá, dầu mỏ, …Tóm lại là sự chuyên môn hóa từ phạm vi nhỏ ở các địa phương đến những không gian lớn hơn giữa các quốc gia trong hoạt động thương mai đều đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia. Lý thuyết này được Ricardo đề ra năm 1987 và gọi là quy luật lợi thế so sánh. Đây là một ly thuyết quan trọng mà tất cả mọi nền kinh tế đều phải áp dụng trong thực tiễn để có được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ổn định trong quan hệ kinh tế hiện đại.
Trường hợp có nhiều hàng hoá với chi phí không đổi và có hai quốc gia thì lợi thế so sánh của từng hàng hoá sẽ được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ hàng hoá có lợi thế so sánh cao nhất đến hàng hoá có lợi thế so sánh thấp nhất và mỗi nước sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có lợi thế so sánh từ cao nhất đến cao ở mức cân bằng. Ranh giới mặt hàng nào là có lợi thế so sánh cao ở mức cân bằng sẽ do cung cầu trên thị trường quốc tế quyết định.
Trường hợp có nhiều quốc gia thì có thể gộp chung tất cả các nước khác thành một nước gọi là phần còn lại của thế giới và những phân tích trên vẫn giữ nguyên tính đúng đắn của nó. Lợi thế so sánh không những áp dụng trong trường hợp thương mại quốc tế mà còn có thể áp dụng cho các vùng trong một quốc gia một cách hoàn toàn tương tự.
Toàn bộ phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự khác nhau giữa các nước trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi hỏi lao động đơn vị khác nhau. Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công nghệ như nhau:
- Các nước phát triển có cung yếu tố đầu vào về tư bản nhiều hơn các nước đang phát triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
- Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có lợi thế so sánh về những hàng hóa này.
Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất khẩu nhiều sản phẩm thô (dầu thô, than đá...) hoặc hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, thiết bị từ các nước phát triển.
2.Lợi thế so sánh theo một số quan điểm hiện đại
2.1 Lợi thế so sánh theo mô hình của trường Đại học Stanford Hoa kỳ
Một trong những quan điểm hiện đại về lợi thế so sánh được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn quan hệ kinh tế ngày nay là lý thuyết lợi thế so sánh của trường Đại học Stanford - Hoa kỳ. Nó được nêu ra như sau : “Một quốc gia được coi là có lợi thế so sánh trong sản xuất sản phẩm X khi chi phí cơ hội xã hội để sản xuất thêm một đơn vị X thấp hơn giá biên giới (trước khi thông quan) của sản phẩm đó.”Định nghĩa lợi thế so sánh này dựa vào hai khái niệm: giá biên giới (trước khi thông quan) và chi phí cơ hội xã hội.
Giá biên giới của sản phẩm X trước khi thông quan bao gồm :
Giá F.O.B đối với quốc gia xuất khẩu X.
Giá C.I.F đối với quốc gia nhập khẩu X.
Chi phí cơ hội xã hội (Social OpportunityCosts) gắn liền với khái niệm lợi ích xã hội để phân biệt với lợi ích tư nhân:
Lợi ích tư nhân (Private Profitability - PP) = giá trị gia tăng – các yếu tố chi phí (không kể chi phí sửdụng vốn) và thuế gián thu theo giá hiện hành.
Lợi ích xã hội (Social Profitability - SP) = giá trị gia tăng – các yếu tố chi phí (không kể chi phí sử dụngvốn) theo chi phí cơ hội.
2.2 Lợi thế so sánh theo mô hình đàn nhạn bay ( The flying geese model)
Mô hình đàn nhạn bay được AkamatsuKaname (1896 – 1974, Nhật) đề xướng từ những năm 1930 và được phát triển bởi một số nhà kinh tế Nhật Bản khác.Đây là lý thuyết phát triển công nghiệp để tạo ra sự chuyển dịch lợi thế so sánhcủa nền kinh tế với 3 phiên bản cụ thể :
Phiên bản 1: một nước –một ngành hàng:
Tình huống đặt ra cho nước đang phát triển áp dụng để phát triển một ngành công nghiệp cụ thể. Ban đầu, quốc gia đó phải nhập khẩu sản phẩm từ các nước công nghiệp phát triển đi trước.Sau đó, tích lũy vốn và học tập kinh nghiệm để phát triển sản xuất tại chỗ thay thế nhập khẩu.Trên cơ sở đó, nhập khẩu sẽ giảm dần và tiến đến xuất khẩu.
Hình 1
Phiên bản 2: một nước –nhiều ngành hàng:
Qui luật phát triển trong từng ngành hàng giống như đã trình bày ở phiên bản 1. Qui luật phát triển công nghiệp của một nước là: phát triển các ngành thứ cấp trước, phát triển các ngành sơ cấp sau.Theo đó, lợi thế so sánh (và sản phẩm xuất khẩu) của quốc gia sẽ chuyển dịch liên tiếp giữa các ngành theo thứ tự nêu trên.
Hình 2
Phiên bản 3: nhiều nước –một ngành hàng:
Qui luật phát triển công nghiệp trong từng nước giống như đã trình bày ở các phiên bản 1 & 2.Từ đó, sẽ diễn ra sự phân công lao động quốc tế theo khu vực trong từng ngành hàng cụ thể.Đội hình bay của đàn nhạn Đông Á: Nhật Bản đầu đàn; các nước NICs hàng thứ hai; các nước nổi trội của ASEAN hàng ba; Trung quốc và Việt Nam ở hàng thứ tư.
Hình 3
II.Đánh giá lợi thế so sánh theo các quan điểm
1.Đánh giá lợi thế so sánh theo quan điểm của David Ricardo
David Ricardo đưa ra 2 học thuyết về lợi thế so sánh tuy nhiên 2 học thuyết này có những ưu nhược điểm và phạm vi ứng dụng khác nhau.
Mô hình 2 quốc gia 2 sản phẩm chỉ có giá trị lý thuyết để hiểu rõ về lợi thế so sánh.
Mô hình nhiều quốc gia, nhiều sản phẩm có thể áp dụng để đánh giá lợi thế so sánh của một ngành hàng quốc gia so với phần còn lại của thế giới 1 cách khách quan.
Ưu điểm
Dễ tính toán, lượng hóa được mức lợi thế so sánh để đánh giá vị thế của ngành hàng hóa quốc gia trên thị trường thế giới một cách tương đối.
Nhược điểm
Độ chính xác trong kết quả đánh giá mức lợi thế so sánh không cao nên việc vận dụng để hoạch định chính sách thương mại cũng kém độ tin cậy.
2. Đánh giá lợi thế so sánh theo quan điểm hiện đại
Mô hình đánh giá lợi thế so sánh của Đại học Stanford có thể vận dụng ở 3 cấp: doanh nghiệp, ngành hàng và nền kinh tế.
Mô hình đàn nhạn bay chủ yếu vận dụng ở cấp ngành và nền kinh tế.
Yêu cầu sử dụng phối hợp cả hai mô hình để phục vụ hoạch định chính sách kinh tế.
Ưu điểm
Lượng hóa lợi thế so sánh rất cụ thể; đánh giá chính xác hiệu quả và vị thế cạnh tranh của các ngành hàng; chỉ rõ quy luật chuyển dịch lợi thế so sánh và trật tự phát triển ngành.
Nhược điểm
Phải thu thập nhiều loại thông tin và tính toán phức tạp, dễ dẫn đến tình trạng sai lầm chủ quan.
Như vậy ta có thể thấy nghiên cứu lợi thế so sánh của các ngành hàng theo quan hệ đa phương là yêu cầu tất yếu khách quan. Qua việc nghiên cứu chúng ta có thể thấy được vai trò của các yếu tố này đối với việc sản xuất kinh doanh so với các nước khác từ đó phát triển kinh tế một cách hiệu quả và phát triển lợi thế của mình trong từng ngành hàng.
Khi nghiên cứu về lợi thế so sánh ta còn hiểu được quy luật chuyển dịch của nó và trình tự phát triển hợp lý giữa các ngành công nghiệp. Vì vậy mà ta phải vận dụng kết hợp các mô hình nghiên cứu về lợi thế so sánh để áp dụng phù hợp với từng ngành hàng và phù hợp với nền kinh tế nước ta
3 Phân tích một ví dụ về lợi thế so sánh của David Ricardo
Để làm rõ học thuyết của mình David Ricardo đã đưa ra ví dụ để phân tích. Ông đã lấy ví dụ về việc sản xuất lúa mỳ và rượu vang ở nước Anh và nước Bồ Đào Nha để phân tích về giả thuyết 2 sản phẩm 2 quốc gia. Và David đã phân tích việc sản xuất 2 sản phẩm này về chi phí lao động, sản xuất trước khi có thương mại và khi có thương mại thì quá trình và kết quả sản xuất đã có những thay đổi đáng kể. Ta có thể thấy rõ qua các bảng số liệu mà ông đưa ra sau đây:
Bảng 1: Chi phí về lao động để sản xuất
Sản phẩm
Anh (giờ công)
Bồ Đào Nha (giờ công)
1 đơn vị lúa mỳ
15
10
1 đơn vị rượu vang
30
15
Theo số liệu trên thì ta thấy Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối so với Anh cả về sản xuất lúa mỳ và rượu vang: năng suất lao động của Bồ Đào Nha gấp 2 lần của Anh trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Ricardo đã phân tích ví dụ này như sau:
Một đơn vị rượu vang tại Anh sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mỳ; Bồ Đào Nha: để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mỳ. Vì vậy Bồ Đào Nha sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với Anh.
Ở Anh sản xuất lúa mỳ rẻ tương đối so với Bồ Đào Nha: chi phí cơ hội có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Bồ Đào Nha phải mất 2/3 đơn vị rượu vang.
Qua ví dụ trên và qua những phân tích của mình Ricardo đã đưa ra kết luận ở Bồ Đào Nha sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Anh và ở Anh sản xuất lúa mỳ rẻ hơn tương đối so với ở Bồ Đào Nha. Có thể nói cách khác là Anh có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mỳ còn Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang.
Sau đó Ricardo giả định 2 nước chỉ sản xuất mặt hàng lợi thế của mình trước và sau thương mại có kết quả như sau:
Bảng 2: Trước thương mại
Quốc gia
Số đơn vị lúa mỳ
Số đơn vị rượu vang
Anh
8
5
Bồ Đào Nha
9
6
Tổng cộng
17
11
Bảng 3: Sau khi có thương mại
Quốc gia
Số đơn vị lúa mỳ
Số đơn vị rượu vang
Anh
18
0
Bồ Đào Nha
0
12
Tổng cộng
18
12
Với ví dụ sản xuất lúa mỳ và rượu vang như trên nhưng ở đây Ricardo giả đinh nguồn lao động của Anh là 270 giờ công, còn của Bồ Đào Nha là 180 giờ công lao động. Và Ricardo cũng đưa ra nhưng giả định khác để phân tích ví dụ này: việc sản xuất của 2 nước không có chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất cố định không thay đổi theo quy mô, chỉ có 2 nước sản xuất 2 loại sản phẩm, nhưng hàng hóa trao đổi giống hệt nhau, các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo, không có thuế quan và rào cản thương mại, thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết đến nơi có hàng hóa rẻ nhất trên thị trường quốc tế.
Qua 2 bảng số liệu Ricardo đưa ra ta có thể thấy kết quả sản xuất đã có nhưng thay đổi tích cực. Khi tập trung sản xuất 1 sản phẩm với sự trao đổi – thương mại giữa 2 nước thì số lượng rượu vang và lúa mỳ đều tăng lên.
Tuy nhiên trong ví dụ trên của Ricardo ta thấy được nhưng điểm hạn chế về lợi thế so sánh do ông đưa ra. Nhưng điểm hạn chế đó là ở những giả định. Chẳng hạn trên thực tế các yếu tố thay đổi chứ không giống như giả định: Các nhân tố sản xuất không dịch chuyển một cách hoàn hảo; những người sản xuất ở Anh hay ở Bồ Đào Nha không tìm được việc làm một cách dễ dàng: người sản xuất lúa mỳ chỉ tìm được việc làm trong sản xuất rượu và ngược lại; đồng thời các rào cản thuế quan và thương mại là khó tránh khỏi ở bất kỳ quốc gia nào. Vì vậy việc đưa các ví dụ để chứng minh học thuyết lợi thế so sánh chưa phân tích hết được các yếu tố tác động.
4. Đánh giá về lợi thế so sánh theo các quan điểm của David Ricardo ở Việt Nam
Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng thị trường mở cửa trong điều kiện khu vực hoá và toàn cầu hoá đang mở ra trước mắt cho Việt Nam nhiều
Ngoài mục tiêu hợp tác để bảo vệ nền hoà bình và ổn định khu vực nói riêng và phạm vi thế giới nói chung, Việt Nam gia nhập ASEAN và các tổ chức kinh tế quốc tế còn vì những lý do khác, trong đó mục tiêu và các lợi ích kinh tế trong quá trình hợp tác là vấn đề được ưu tiên.Muốn hợp tác hội nhập có kết quả, Việt Nam cần nhận thấy mình có những lợi thế so sánh gì và sẽ bổ sung cơ cấu trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới ở những lĩnh vực nào?
Từ việc nghiên cứu lý thuyết lợi thế so sánh và sự phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo cho phép chúng ta rút ra nhiều gợi ý quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh mới.
Từ sự phân tích và lập luận ở trên cho thấy: lợi thế so sánh của Việt Nam là các lợi thế tĩnh, nếu các lợi thế này không có khả năng tái sinh thì nó sẽ mất dần đi. Điều này thấy rất rõ ở hai lợi thế mà Việt Nam đang có là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào. Mặc dầu Việt Nam được coi là một đất nước phong phú về các loại khoáng sản, nhưng nếu tính theo mức đầu người thì không phải là nước giàu khoáng sản. Về lao động, Việt Nam có nguồn lao động trẻ dồi dào, tuy nhiên lực lượng này lại chưa quen với lối lao động công nghiệp, việc tiếp cận công nghệ mới còn hạn chế . Do đó chất lượng lao động không cao, thế nhưng tiền công lao động lại quá cao nếu tính theo năng suất.Thứ hai, so với các nước ASEAN, hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam vẫn ở trình độ thấp. Theo số liệu thống kê năm 2007 của WTO, trong 50 nền kinh tế của thế giới 9 Phần I: Các lý thuyết kinh tếđược đưa ra phân tích thì Việt Nam được xếp thứ 50 cuối danh sách.
Trong mô hình: lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng, thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá Việt Nam chỉ có lợi thế so sánh ở mức thấp, biểu hiện sản xuất ở một số nhóm hàng, mặt hàng sử dụng nhiều lao động và lợi thế về tài nguyên tự nhiên. Nhưng với quá trình phát triển (công nghiệp hoá, hiện đại hoá), Việt Nam sẽ có một bước chuyển rất căn bản: mở rộng lợi thế so sánh ra nhiều mặt hàng, nhóm hàng có giá trị cao. Muốn vậy phải kết hợp đồng thời nhiều yếu tố: vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên sẵn có và nguồn nhân lực phong phú, trong đó nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh phát triển hiện nay, bởi nó tạo ra bước nhảy vọt về năng suất.
B.Thực trạng ở Việt Nam
I. Những đặc điểm chung để phát triển kinh tế Việt Nam
Việt Nam nằm trong điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đó chính là vị trí địa lý thuận tiện cho việc giao lưu, trao đổi và buôn bán với các nước trên thế giới.
Địa hình Việt Nam đa dạng, bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển giúp cho việc phát triển cả về nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Khí hậu: Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn thuận lợi cho việc phát triển trồng trọt và chăn nuôi.
Tài nguyên thiên nhiên: Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp, Quần thể động vật ở Việt Nam cũng phong phú và đa dạng.
Có nhiều khoáng sản quý giá như than đá, quặng, sắt, chì, dầu mỏ...góp phần phát triển công nghiệp.
- Nguồn lao động ở Việt Nam.
Về số lượng: Việt Nam chúng ta đang có nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước gần 86 triệu người.
Về chất lượng: Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú…Nhìn vào những con số này cho thấy lực lượng trí thức và công chức thực sự là một nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa, lao động Việt Nam lại cần cù, chăm học hỏi và sáng tạo trong tìm tòi áp dụng công nghệ mới vào quá trình lao động.
Việt Nam có một hệ thống chính trị ổn định với Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo và chính phủ điều hành, không xảy ra tình trạng xung đột, lật đổ, đảo chính giữa các đảng phái chính trị vì vậy tạo điều cho nền kinh tế được phát triển bền vững.
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hoá công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng nên chính phủ có những chính sách kích thích hay " trải thảm đỏ" mở cửa đón các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong nước.
Với chính sách cải cách kinh tế kịp thời chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng của Xã hội chủ nghĩa giúp nền kinh tế phát triển bước qua sự suy thoái kinh tế.
Nhà nước có nhận định chính xác về chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia đó là giảm tỷ lệ cơ cấu kinh tế nông nghiệp tăng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp và dịch vụ bước đầu đã có chuyển biến tích cực và có hiệu quả giúp cho nền kinh tế có tốc độ phát triển cao.
II.Những lợi thế so sánh của Việt Nam
Lợi thế so sánh bao gồm lợi thế so sánh tự nhiên và tự tạo. Lợi thế so sánh tự nhiên có từ các nguồn lực sẵn có như đất đai, tài nguyên, khoáng sản, lao động và nguồn vốn. Các cơ hội thị trường mở ra cũng có khả năng tạo ra những lợi thế mới. Lợi thế so sánh tự tạo được hình thành từ chính sách đầu tư của chính phủ và doanh nghiệp thông qua chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành.
1.Những lợi thế so sánh tự nhiên
- Vị trí địa lý chiến lược ( đường biển, đường bộ, đường sông).Nước ta có đường biên giới rất dài với các nước: Biên giới Việt-Trung dài > 1.400km, phần lớn dựa theo núi, sông tự nhiên và những hẻm núi hiểm trở,biên giới với Lào là một xương sống chung,