Đề tài Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Bắc Kạn

Ngân hàng là một trong các tổchức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy, là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ. Trong nền kinh tếthịtrường hiện nay làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất lớn, góp phần cải thiện công tác thanh toán, ổn định lưu thông tiền tệ, khống chế được lạm phát, thúc đẩy tăng nhanh vòng quay của vốn và một điều quan trọng là nó thểhiện được vai trò quản lý của Nhà nước trong kinh tế. Nước ta từkhi chuyển sang nền kinh tếthịtrường có sựquản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủnghĩa, việc sửdụng các công cụthanh toán không dùng tiền mặt được chú ý. Thế nhưng, cho đến nay thì thanh toán không dùng tiền mặt vẫn được phát triển và phổcập rộng rãi trong dân cư. Tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷtrọng cao trong tổng thanh toán của nền kinh tế.

pdf77 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4257 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: “Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Kạn” 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Nguyên từ NHTM NHNN NH TTKDTM UNC UNT BKNS BIDV Ngân hàng Thương mại Ngân hàng Nhà Nước Ngân hàng Thanh toán không dùng tiền mặt Uỷ nhiệm chi Uỷ nhiệm thu Bảng kê nộp séc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 3 LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy, là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất lớn, góp phần cải thiện công tác thanh toán, ổn định lưu thông tiền tệ, khống chế được lạm phát, thúc đẩy tăng nhanh vòng quay của vốn và một điều quan trọng là nó thể hiện được vai trò quản lý của Nhà nước trong kinh tế. Nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt được chú ý. Thế nhưng, cho đến nay thì thanh toán không dùng tiền mặt vẫn được phát triển và phổ cập rộng rãi trong dân cư. Tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thanh toán của nền kinh tế. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nghèo, kinh tế kém phát triển, trong thanh toán thì thanh toán bằng tiền mặt vẫn là chủ yếu. Vì vậy, việc đẩy nhanh công tác thanh toán không dùng tiền mặt là điều cần thiết. Do đó, em đã chọn đề tài: “ Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Kạn”, do kinh tế Bắc Kạn còn kém phát triển nên việc thanh toán không dùng tiền mặt cũng chỉ thực hiện trong phạm vi quốc gia, nên đề tài của em chỉ nghiên cứu về thanh toán không dùng tiền mặt trong nước. Mục đích của việc nghiên cứu công tác thanh toán không dùng tiền mặt là phân tích các vấn đề có liên quan tới thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó rút ra dược những mặt làm được và những mặt chưa thực hiện được của công tác này và đề xuất những giải pháp nhằm giúp phát triển và hoàn thiện công tác thanh toán này tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Kạn. Bài viết này em sử dụng phương pháp phân tích, so sánh số liệu công tác thanh toán của chi nhánh trong năm 2005, 2006 và 2007. 4 Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận thì gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Kạn Chương 3: Định hướng và giải pháp để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Kạn 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTM 1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau phải dùng hình thức tiền tệ, vì vậy, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu khách quan, là điều cần thiết phục cho quá trình tái sản xuất xã hội. Thanh toán tiền tệ được thực hiện dưới hai hình thức là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán bằng tiền mặt là việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt trong các quan hệ thanh toán thu chi giữa nhân dân với nhau, giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan Nhà nước với nhân dân…. Thanh toán bằng tiền hợp với vai trò của tiền tệ làm vật môi giới trong quá trình lưu thông. Sau khi xuất chuyển hàng hoá hay cung ứng dịch vụ cho người mua, người bán nhận được tiền ngay và quá trình thanh toán cũng chấm dứt ở đó. Nhưng khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến một trình độ cao hơn, thì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt không còn tỏ ra là một phương thức duy nhất nữa, lúc đó nó đòi hỏi một phương thức hiện đại hơn, bên cạnh đó với sự phát triển vượt bậc của hệ thống Ngân hàng, các dịch vụ, các công cụ thanh toán đã được Ngân hàng nghiên cứu đưa ra để khách hàng lựa chọn cho mình một hình thức thanh toán thích hợp thay cho thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt phát sinh từ đó. Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán "phi tiền mặt" thực chất là dùng các công cụ khác để thay thế tiền mặt trong thanh toán. Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ không có sự xuất hiện của tiền mặt mà vẫn được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán về mặt bản chất thì TTKDTM phản ánh sự 6 vận động của vật tư hàng hoá, dịch vụ lưu thông. Sự phát triển rộng khắp của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường hiện đại là yêu cầu tất yếu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá, do kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, khối lượng hàng hoá, dịch vụ trao đổi lớn, tất yếu phải có cách thức trả tiền thuận tiện và an toàn hơn. Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, công dân Việt Nam và nước ngoài sống và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam gọi chung là đơn vị và cá nhân có quyền lựa chọn cho riêng mình Ngân hàng để mở tài khoản và thực hiện giao dịch phục vụ cho nhu cầu của mình, các đơn vị và cá nhân có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng được gọi chung là chủ tài khoản. Nếu như trong thanh toán sử dụng tiền mặt thì chỉ có sự tham gia của người mua và người bán thì trong phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thì chủ thể tham gia còn bao gồm cả Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác cung ứng dịch vụ thanh toán. 1.1.2. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt NHTM là Ngân hàng kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu cơ bản là lợi nhuận, vì vậy, nên mạng lưới Ngân hàng rộng khắp để đáp ứng nhu cầu tiền tệ - tín dụng và thanh toán của nền kinh tế hàng hoá phát triển rộng khắp quốc gia và vươn ra thế giới. Nhìn lại lịch sử hình thành ban đầu của Ngân hàng, chúng ta thấy dịch vụ ban đầu của Ngân hàng mà cung cấp là dịch vụ quản lý vốn cho khách hàng, bên cạnh đó Ngân hàng còn đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn thuận tiện cho khách hàng, do đó tạo được sự tín nhiệm cho khách hàng, và Ngân hàng đã thu hút được nguồn vốn quan trọng nhất cho hoạt động của mình. Ngân hàng là trung gian thanh toán cho khách hàng làm cho quá trình lưu thông hàng hóa được tiến hành một cách có hiệu quả. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng và diễn ra nhanh; khối lượng tiền tệ ngày càng nhiều, phạm vi đã mở rộng ra tận thế giới. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp không thể thanh toán trực tiếp với nhau mà cần có sự tham giam của Ngân hàng, chính vì vậy Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán trong nền kinh tế. 7 Tiền mặt là phương tiện thanh toán không thể thiếu, song ngày nay thanh toán dùng tiền mặt không còn là hình thức thanh toán tối ưu trong các giao dịch thương mại dịch vụ nữa, đặc biệt là các giao dịch có giá trị và khối lượng lớn, trước đây trong nền sản xuất hàng hoá còn nhỏ lẻ, khối lượng hàng hoá ít thì việc thanh toán sử dụng tiền mặt là rất thuận tiện, nhưng trong nền kinh tế thị trường hiện nay sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao, khối lượng hàng hoá vô cùng lớn, việc trao đổi hàng hoá đa dạng và trên diện rộng, các hoạt động giao dịch thương mại, dịch vụ hàng hóa ngày nay diễn ra mọi lúc, mọi nơi, vượt cả giới hạn về khoảng cách thì hình thức thanh toán bằng tiền mặt không còn phù hợp nữa. Xét trên nhiều góc độ, khi hoạt động thanh toán trong xã hội còn phổ biến bàng hình thức tiền mặt nhất là trong thanh toán các khoản có giá trị lớn có thể dẫn đến một số bất lợi như: • Chi phí của xã hội để tổ chức hoạt động thanh toán (như chi phí của chính phủ cho việc in ấn, chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm, đếm tiền của hệ thống ngân hàng, các chủ thể tham gia giao dịch) là rất tốn kém. • Việc thực hiện giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với khối lượng lớn dễ bị các đối tượng phạm pháp lợi dụng để gian lận, trốn thuế, trì hoãn hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng hoặc chủ nợ. • Vấn đề an ninh trong thanh toán, bảo quản, vận chuyển tiền luôn luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. • Sử dụng nhiều tiền mặt trong giao dịch thanh toán của xã hội sẽ là môi trường thuận lợi cho tội phạm lưu hành tiền giả, đe doạ trực tiếp tới lợi ích của các tổ chức, cá nhân và tình hình an ninh quốc gia. Các bất lợi và rủi ro trên đây là vấn đề xảy ra với bất kỳ quốc gia nào, song với các nước mà thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến thì trong xã hội tình hình sẽ càng phức tạp hơn và khó kiểm soát hơn. Mặt khác, khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển cả về chất lượng và số lượng thì việc thanh toán bằng tiền mặt không còn đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu thanh toán của toàn bộ nền kinh tế nữa. Từ thực tế đó thì đòi hỏi phải có sự ra đời của một 8 phương thức tiên tiến và hiện đại hơn để có thể đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày càng cao của xã hội, do vậy, sự ra đời của phương thức thanh toán không dùng tiền mặt là tất yếu. 1.1.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt TTKDTM được tổ chức thành một hệ thống thống nhất, trong hệ thống này thì Ngân hàng là một trung tâm thanh toán. Mọi hoạt động trao đổi về hàng hóa và dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh toán, quan hệ thanh toán liên quan đến mọi hoạt động trong xã hội, vì vậy, việc tổ chức tốt công tác thanh toán đặc biệt là TTKDTM có ý nghĩa kinh tế rất lớn, ý nghĩa này được thể hiện qua các mặt sau: TTKDTM góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ta biết rằng thanh toán vừa là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của một chu kỳ sản xuất kinh doanh, do vậy nếu tổ chức tốt công tác thanh toán sẽ góp phần tăng nhanh sự vận động của vật tư, tiền vốn giúp cho các doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh để phục vụ cho chu kỳ sản xuất sau, cũng tức là phục vụ cho quá trình tái sản xuất không ngừng phát triển. Nhờ công tác thanh toán không dùng tiền mặt mà các khách hàng ở xa vẫn có thể thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ nhanh chóng thay vì phải mất nhiều thời gian để vận chuyển tiền mặt, có thể nói thanh toán không dùng tiền mặt đã rút nhanh vòng quay vốn của khách hàng. Thúc đẩy hoạt động thanh toán trong nền kinh tế với những ưu điểm như: an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí. Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời đã làm giảm được chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển. Thông qua công tác thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng có thể biết được phần nào hoạt động thanh toán của khách hàng từ đó tổng hợp số liệu để biết được hoạt động thanh toán vốn chung cho cả nền kinh tế. Thông qua tình hình biến động số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập được những thông tin cần thiết về tình hình kinh tế - tài chính của khách hàng như thông tin về dòng lưu chuyển tiền tệ, doanh 9 thu…. Từ đó, Ngân hàng gián tiếp đánh giá được tình hình kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… của khách hàng, để thực hiện kiểm soát đồng tiền thông qua việc có các chính sách kịp thời, hợp lý đối với các quyết định về huy động vốn, cho vay và thực hiện các dịch vụ khác của Ngân hàng. Góp phần tạo thêm nguồn vốn đầu tư: đối với Ngân hàng thì thanh toán qua Ngân hàng làm tăng thêm nguồn vốn vì nó sử dụng được số tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng gửi vào để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Mỗi một doanh nghiệp, cá nhân đều giữ một lượng tiền mặt nhất định để chờ sử dụng. Nếu khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để thanh toán bằng chuyển khoản thì số tiền này sẽ giảm, Ngân hàng sẽ huy động thêm nhiều nguồn vốn để đầu tư cho nền kinh tế. Như vậy, việc thanh toán qua Ngân hàng sẽ giúp cho khả năng tạo tiền của NHTM, đảm bảo được nhu cầu thanh toán ngày càng tăng trong nền kinh tế. Mặt khác ngân hàng thu phí dịch vụ do thực hiện nghiệp vụ thanh toán giữa các khách hàng. TTKDTM có vai trò làm giảm khối lượng tiền mặt, hỗ trợ cung ứng tiền mặt, điều hoà lưu thông tiền tệ của NHNN: khối lượng tiền mặt và khối lượng tiền ghi sổ được quyết định bởi tổng giá cả hàng hoá - dịch vụ và tốc độ lưu thông tiền tệ bình quân. Vì vậy, sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế sẽ bao gồm sự vận động của tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, tức là thanh toán không dùng tiền mặt tăng thì lưu thông tiền mặt giảm và ngược lại, do NHNN là cơ quan duy nhất phát hành, kiểm soát và cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế thông qua các kênh như nghiệp vụ thanh toán thị trường mở, tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, từ đó điều tiết khối lượng tiền ghi sổ tại các NHTM. TTKDTM gắn với sự phát triển của hệ thống tài chính – tín dụng, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống Ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân mở tài khoản tiền gửi và thanh toán tiền hàng dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ thống này. Như vậy, TTKDTM giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đứng trên giác độ của ngành Ngân hàng, nó phản ánh khá trung thực trình độ quản lý, trình 10 độ kỹ thuật nghiệp vụ của Ngân hàng, cũng như sự tín nhiệm của khách hàng. Trong nội bộ một Ngân hàng, TTKDTM không chỉ tác động đến nghiệp vụ thanh toán mà còn tác động đến các nghiệp vụ khác của Ngân hàng như nghiệp vụ tín dụng, nếu làm tốt công tác TTKDTM thì sẽ thúc đẩy nghiệp vụ tín dụng phát triển và ngược lại. Đi đôi với sự phát triển kỹ thuật tin học, ngày nay Ngân hàng hiện đại cũng chyển hướng kinh doanh bằng cách mở rộng các dịch vụ tín dụng, chứ không chỉ là kinh doanh chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay là chủ yếu trước đây, trong đó dịch vụ thanh toán đóng vai trò trung tâm và đặc biệt quan trọng. 1.1.4. Điều kiện để khách hàng tham gia vào thanh toán không dùng tiền mặt Khi tham gia vào thanh toán không dùng tiền mặt thì mọi khách hàng đều phải thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng về các thủ tục giao dịch, các giấy tờ thanh toán. Ngân hàng sẽ cung cấp các mẫu giấy tờ cần thiết theo nhu cầu của khách hàng để họ có thể tham gia vào phương thức thanh toán này. Đối với các chứng từ này thì cần được viết theo các mẫu có sẵn của Ngân hàng và phải được ghi rõ ràng, chính xác, không được tẩy xoá, viết bằng mực không phai…. Đối với các khách hàng thường xuyên tham gia thanh toán qua Ngân hàng thì phải có tài khoản tại Ngân hàng và phải có số dư đủ để đảm bảo thanh toán và đảm bảo duy trì tài khoản. 1.1.4.1. Mở và sử dụng tài khoản thanh toán Các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán (sau đây gọi chung là khách hàng) có quyền lựa chọn Ngân hàng làm dịch vụ thanh toán để mở tài khoản. Khi quyết định mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại các Ngân hàng, khách hàng thường quan tâm đến các yếu tố sau: • Thuận tiện trong giao dịch, tốc độ nhanh • Đảm bảo an toàn tài sản • Chi phí giao dịch hợp lý 11 a, Mở tài khoản Theo thông tư số 08/TT-NH2, ngày 21/02/1994 của NHNN Việt Nam, hướng dẫn về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt thì việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi phải chấp hành đúng những quy định sau: - Đối với khách hàng là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang: + Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (Tổng Giám đốc, Giám đốc, thủ trưởng đơn vị, chủ doanh nghiệp) ký tên đóng dấu trong đó phải ghi rõ: • Tên đơn vị • Họ tên chủ tài khoản • Địa chỉ giao dịch của đơn vị • Mã số thuế, giấy phép đăng ký kinh doanh của đơn vị. • Số chứng minh thư, ngày tháng năm cấp, nơi cấp của chủ tài khoản. • Tên NH nơi mở tài khoản + Bảng đăng ký mẫu dấu chữ ký để giao dịch với NH • Chữ ký mẫu của chủ tài khoản và người được uỷ quyền • Chữ ký mẫu của kế toán trưởng và người được uỷ quyền • Mẫu dấu của đơn vị - Đối với khách hàng là cá nhân + Giấy đăng ký mở tài khoản của chủ tài khoản, trong đó ghi rõ: Họ tên của chủ tài khoản; Địa chỉ giao dịch của chủ tài khoản; Số, ngày tháng năm, nơi cấp chứng minh thư của chủ tài khoản; Tên NH nơi mở tài khoản. + Bảng đăng ký mẫu chữ ký của chủ tài khoản để giao dịch với NH. Đối với tài khoản là cá nhân thì không được uỷ quyền, tất cả các giấy tờ thanh toán, giao dịch với NH buộc phải là chữ ký của chủ tài khoản. Sau khi chấp nhận mở tài khoản cho khách hàng thì NH thông báo cho khách hàng biết số hiệu tài khoản, ngày bắt đầu hoạt động của tài khoản. 12 b, Sử dụng tài khoản thanh toán - Chủ tài khoản phải đảm bảo có đủ tiền trên tài khoản thanh toán tại thời điểm giao dịch thanh toán phải được thực hiện, Chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt quá số dư Có trên tài khoản. Trừ trường hợp NH cho phép thấu chi. Ngân hàng là tổ chức tín dụng có nhận thanh toán phải duy trì trên tài khoản tiền gửi tại NHNN số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định. - Chủ tài khoản được toàn quyền sử dụng số dư tài khoản tiền gửi tại NH thông qua các lệnh thanh toán phù hợp với quy định của Ngân hàng Trung Ương. Chịu trách nhiệm về những sai sót hay hành vi lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của mình. - Được hưởng lãi suất cho số tiền gửi trên tài khoản theo mức lãi suất do NH quy định tùy theo đặc điểm của chủ tài khoản, số dư tài khoản và phù hợp với quy chế quản lý lãi suất của NHNN ban hành trong từng thời kỳ. - Được yêu cầu NH cung cấp các thông tin về những giao dịch và số dư trên tài khoản của mình. - Tuân thủ các hướng dẫn của NH nơi mở tài khoản về việc lập các lệnh thanh toán và sử dụng các phương tiện thanh toán, thực hiện giao dịch thanh toán qua tài khoản: sử dụng, luân chuyển, lưu trữ chứng từ giao dịch, đảm bảo các biện pháp an toàn trong thanh toán do NH quy định. - Chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác bằng văn bản sử dụng tài khoản theo quy định của pháp luật. Người được uỷ quyền có quyền hạn và nghĩa vụ như chủ tài khoản trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba. - Không được cho thuê, cho mượn hoặc sử dụng tài khoản của mình cho các giao dịch thanh toán đối với những khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp. - Thông báo kịp thời cho NH nơi mở tài khoản khi phát hiện khi thấy sai sót, nhẫm lẫn trên tài khoản của mình hoặc tài khoản của mình bị lợi dụng. Cung cấp thông tin chính xác khi yêu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán hoặc trong quá trình sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. 13 Trong trường hợp có đóng chủ tài khoản thì mọi giao dịch thanh toán trên tài khoản chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của những người đồng chủ tài khoản. 1.1.4.2. Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng và khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng Ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán có quyền quy định khách hàng phải nộp phí khi nhận dịch vụ thanh toán, quy định hạn mức thấu chi đối với từng khách hàng. Yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin có liên quan trong quá trình sử dụng dịch vụ thanh toán, từ chối thanh toán khi khách hàng không đáp ứng đủ để sử dụng dịch vụ thanh toán, hoặc vi phạm nguyên tắc thanh toán. Ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thanh toán chính xác, kịp thời và an toàn tài sản theo yêu cầu của khách hàng. Niêm yết công khai phí dịch vụ thanh toán, giữ bí mật về số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng theo đúng quy định của pháp luật. Từ chối thực hiện các giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp. Cung cấp thông tin định kỳ hoặc đột xuất (nếu cần) cho chủ tài khoản về số dư tài khoản và các giao dịch thanh toán trên tài khoản của chủ tài khoản. Ngân hàng chủ đ
Luận văn liên quan