Ở Việt Nam, BH PNT đã bắt đầu hình thành từ năm 1965. Từ 1965 đến 1994 là thời kỳ BH PNT hoàn toàn hoạt động độc quyền với một DNBH Nhà nước duy nhất . Do vậy, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế rất hạn chế.
Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành BH Việt Nam được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP,ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1993 về KDBH. Theo đó, đã ra đời một số công ty BH và TTBH Việt Nam mới bắt đầu hình thành, hoạt động và bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, TTBH nói chung và TTBH phi nhân thọ nói riêng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục, đổi mới.Mặt khác, trong su thế hội nhập kinh tế quốc tế và trong điều kiện nước ta ra nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm. Vì vậy, rất cần thiết phải có những đổi mới toàn diện, tạo nên bước phát triển đột phá trong ngành BH phi nhân thọ.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã chọn chủ đề :“Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế.
99 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 7756 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, BH PNT đã bắt đầu hình thành từ năm 1965. Từ 1965 đến 1994 là thời kỳ BH PNT hoàn toàn hoạt động độc quyền với một DNBH Nhà nước duy nhất . Do vậy, ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế rất hạn chế.
Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành BH Việt Nam được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP,ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1993 về KDBH. Theo đó, đã ra đời một số công ty BH và TTBH Việt Nam mới bắt đầu hình thành, hoạt động và bước đầu đáp ứng được một số nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, TTBH nói chung và TTBH phi nhân thọ nói riêng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục, đổi mới.Mặt khác, trong su thế hội nhập kinh tế quốc tế và trong điều kiện nước ta ra nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm.... Vì vậy, rất cần thiết phải có những đổi mới toàn diện, tạo nên bước phát triển đột phá trong ngành BH phi nhân thọ.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tác giả đã chọn chủ đề :“Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Ở Việt Nam, TTBH phi nhân thọ mới được hình thành từ năm 1994. Ngành BHTM nói chung và bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất non trẻ, nhìn chung còn là lĩnh vực mới mẻ. Do đó, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, mới chỉ dừng lại ở một số chuyên đề, hội thảo ở một lĩnh vực nhất định của TTBH phi nhân thọ. Một vài luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu về thị trường bảo hiểm Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ nghiên cứu trên lĩnh vực Maketing, lịch sử kinh tế… và cũng chỉ trong một vài lĩnh vực cụ thể. Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, tổng thể đặc biệt là trên góc độ Kinh tế chính trị và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
PGS –TS Phương Ngọc Thạch đã viết chuyên đề về thị trường bảo hiểm: vấn đề và kiến nghị, song mới chỉ nói riêng về bảo hiểm con người và bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu. Ths. Nguyễn Tiến với chuyên đề: Mở cửa TTBH Việt Nam - thực trạng và giải pháp. Chuyên đề không đánh giá mà chỉ bàn về những quan điểm của Chính phủ trong việc phát triển TTBH, xoay quanh việc mở cửa TTBH. Tác giả Trần Đình Ba, với đề tài BH phi nhân thọ trong quá trình mở cửa TTBH Việt Nam mới chỉ đề cập đến vấn đề tăng doanh thu phí bảo hiểm.
Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam của tác giả Trần Trung Tính (2002), nghiên cứu trong lĩnh vực maketing của TTBH nói chung. Luận văn Thạc sỹ với đề tài: Quá trình phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2004 - thực trạng và giải pháp, của tác giả Trịnh Thị Xuân Dung ( 2005), nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử kinh tế và cũng chỉ tập trung nghiên cứu những DNBH lớn trong điều kiện thực tế của thời gian nghiên cứu. Nhìn chung các luận văn trên mới chỉ nghiên cứu TTBH trong phạm vi “đóng” mà không đặt nó trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, các luận văn đó cũng chỉ tập trung nghiên cứu về mặt kinh doanh BH mà chưa chú trọng đến mảng đầu tư vốn nhàn dỗi vào nền kinh tế của các DNBH.
Điểm khác biệt của luận văn là nghiên cứu toàn diện, tổng thể TTBH phi nhân thọ dưới góc độ kinh tế chính trị và đặt nó trong điều kiện hội nhập KT quốc tế. Đồng thời nghiên cứu đầy đủ cả KDBH và đầu tư trở lại nền kinh tế cũng như vị trí, vai trò của các DNBH phi nhân thọ với tư cách là trung gian tài chính trong thị trường tài chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học của luận văn:
- Góp phần làm rõ những vấn đề về lý luận về BH phi nhân thọ và TTBH PNT. Vận dụng những vấn đề đó vào điều kiện thực tế ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng TTBH phi nhân thọ ở Việt nam trong thời gian từ 1994 đến 2005.Khảo sát kinh nghiệm TTBH một số nước.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTBH PNT.
- Đề xuất những phương án, giải pháp nhằm phát triển TTBH phi nhân thọ ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận chung về TTBH phi nhân thọ. Những nhân tố để phát triển TTBH phi nhân thọ.
Phạm vi: Nghiên cứu toàn bộ TTBH PNT Việt Nam từ 1994 đến 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lịch sử với phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, phương pháp so sánh, hệ thống hóa cũng được sử dụng để thực hiện luận văn.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ những vấn đề chung về BH PNT và TTBH phi nhân thọ.
- Trình bày một số kinh nghiệm về phát triển TTBH PNT ở các nước trên thế giới, có thể vận dụng vào phát triển TTBH PNT ở Việt Nam.
- Qua phân tích thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm cải thiện môi trường KDBH PNT ở Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBH PNT, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực KDBH PNT để phát triển thị TTBH PNT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm phi nhân thọ và thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ.
Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở
Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp để phát triển thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
VÀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1. BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1.1.1. Những vấn đề chung về bảo hiểm thương mại và bảo hiểm phi nhân thọ
Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên, xã hội và cũng luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra như: Bão, lụt, động đất, sóng thần, rét, hạn hán, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, mất trộm, mất cắp tài sản, ốm đau dịch bệnh, mất việc làm, hỏa hoạn, bạo lực… đều có ảnh hưởng đến thu nhập và hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…gây tác động xấu đến KT XH nói chung.
Để đối phó, xử lý các rủi ro con người có các biện pháp khác nhau. Có thể là kiểm soát, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro, nhưng trên thực tế có nhiều loại rủi ro bất ngờ không thể kiểm soát được. Biện pháp khác là chấp nhận rủi ro tức là tự khắc phục hậu quả.Cũng có thể chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng -đây chính là bảo hiểm.BH là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Như vậy, BH ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.1.1. Khái niệm và nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại
a) Khái niệm: Có rất nhiều cách khái niệm về BHTM.Tùy thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực mà các khái niệm có một số điểm khác nhau:
- Theo ủy ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa kỳ thì: Bảo hiểm là việc tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những rủi ro gây ra chúng cho những người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường cho những tổn thất này, cung cấp các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra, hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến rủi ro.
- Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: Bảo hiểm là sự thỏa thuận, qua đó một bên ( Người bảo hiểm) cam kết sẽ thanh toán cho bên kia ( Người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm), một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất về tài chính cho Người được bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ Người tham gia bảo hiểm đến Người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, Người bảo hiểm đòi Người được bảo hiểm một khoản tiền đó là phí bảo hiểm.
- Một cách toàn diện hơn người Pháp cho rằng: Bảo hiểm là một hoạt động, thông qua đó một cá hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả nếu rủi ro xảy ra, nhờ vào khoản đóng góp cho mình hay cho người khác. Khoản bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhiệm, tổ chức này có trách nhiệm trước các rủi ro và bù trừ chúng theo qui luật thống kê.
Dù BHTM được khái niệm bằng cách nào nhưng nó đều thể hiện bản chất của BH nói chung đó là sự san sẻ rủi ro trên cơ sở số lớn của các cá nhân và tổ chức xã hội thông qua hoạt động của các tổ chức BH. Nói cách khác BH là phương sách xử lý tủi ro, nhờ đó việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh của các DNBH.
b) Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại
*) Nguyên tắc số đông bù số ít: KDBH là việc người BH tìm kiếm lợi ích kinh tế dựa trên cơ sở hợp đồng BH, mà theo đó đổi lấy phí BH, người BH cam kết thực hiện bồi thường, hoặc trả tiền BH cho người được BH khi có sự kiện BH xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí BH mà các DNBH nhận được. Để làm được điều này, hoạt động của BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào.
Các DNBH thông qua việc huy động bằng hình thức phí BH, thành lập nên quỹ bồi thường để chi trả cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia BH. Các DNBH đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BH thì quỹ BH tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm BH chỉ có thể được triển khai có hiệu quả khi có nhiều nhu cầu về cùng loại dịch vụ đó.
*) Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm: Về nguyên tắc, những rủi ro có thể được BH là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được và những nguyên nhân gây ra rủi ro phải là khách quan và không cố ý. Vì vậy, các DNBH thường không nhận BH cho các trường hợp tổn thất gây ra do hành vi cố ý của người tham gia BH (ví dụ cố ý tự tử), những tổn thất đã xảy ra, hoặc chắc chắn sẽ xảy ra ( ví dụ hao mòn tự nhiên, giảm giá trị thương mại..), hay những tổn thất bởi người tham gia BH vi phạm nghiêm trọng pháp luật…Để đảm bảo nguyên tắc này, trong các điều khoản của hợp đồng BH luôn qui định các rủi ro bị loại trừ.
Nguyên tắc này nhằm tránh việc bồi thường cho những tổn thất có thể thấy trước hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Đồng thời làm giảm sác xuất rủi ro trong khi tính toán và đưa ra mức phí BH chính xác, hợp lý. Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các DNBH mà chính những người tham gia BH cũng được hưởng mức phí BH hợp lý và cảm thấy công bằng hơn khi mua BH.
*)Nguyên tắc phân tán rủi ro: Các DNBH có chức năng huy động và thành lập quỹ BH trên cơ sở sự đóng góp của nhiều người. Đây là một quỹ tài chính lớn và dùng để thực hiện cam kết bồi thường và chi trả BH. Tuy nhiên các DNBH cũng phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn mà không phải lúc nào DNBH cũng đảm bảo được khả năng thanh toán ( có thể thấy điều này ở các DNBH có qui mô nhỏ, hoặc mới thành lập).
Vì lý do trên, các nhà BHTM thường không nhận những rủi ro quá lớn vượt quá khả năng tài chính của mình. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kỵ là phải từ chối nhận BH, đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro đó là đồng BH và tái BH. Nếu trong đồng BH, nhiều DNBH cùng nhận BH cho một rủi ro lớn thì tái BH lại là phương thức trong đó, một DNBH nhận BH cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt phần rủi ro cho một hoặc nhiều DNBH khác.
*) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Nguyên tắc này đòi hỏi các DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện điều khoản để soạn thảo hợp đồng đảm bảo cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà BH là sản phẩm dịch vụ và là sản phẩm “vô hình”. Người mua chỉ có trong tay một hợp đồng, một cam kết chứ không hề có một sản phẩm cụ thể. Vì vậy, chất lượng sản phẩm có được đảm bảo hay không, quyền lợi của người mua có được đầy đủ công bằng hay không…đều chủ yếu dựa vào sự trung thực từ phía các DNBH. Ngược lại, nguyên tắc này cũng đòi hỏi người tham gia BH phải trung thực khi kê khai về những đối tượng trước khi tham gia BH, để xác định mức phí phù hợp, cũng như phải trung thực khi khai báo rủi ro trong khi đòi bồi thường. Mọi hành vi gian lận, không trung thực, nhằm trục lợi BH sẽ bị pháp luật xử lý.
*) Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia BH phải có một số quan hệ với đối tượng tham gia BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản và quyền nghĩa vụ nuôi,cấp dưỡng đối với đối tượng được BH. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại nhằm thu lợi từ một hợp đồng BH.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, còn có một số nguyên tắc đó là nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán…áp dụng cho từng trường hợp cụ thể.
1.1.1.2 Bảo hiểm phi nhân thọ và phân loại bảo hiểm phi nhân thọ
a) Bảo hiểm phi nhân thọ: Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào đưa ra một khái niệm riêng cho BH phi nhân thọ. Song có thể hiểu khái niệm về BH phi nhân thọ chính là khái niệm BH thương mại, bởi lẽ:
Nguyên tắc hoạt động, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BHTM cũng chính là những nguyên tắc, đối tượng và lĩnh vực hoạt động của BH PNT . Đối tượng bao gồm các loại tài sản (hữu hình và vô hình), con người và một số trách nhiệm phát sinh do mối quan hệ giữa con người với con người. Vì vậy, theo tiêu thức đối tượng, BHTM gồm có: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người (bao gồm con người PNT và BH nhân thọ). Như vậy, có thể hiểu BHTM hoạt động trên hai lĩnh vực PNT và nhân thọ - trong đó BH nhân thọ chỉ là một hình thức của BH con người.( BH nhân thọ là sự cam kết trong đó người BH sẽ trả cho người tham gia BH một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra, còn người tham gia BH phải nộp phí BH theo qui định của hợp đồng. BH nhân thọ là quá trình BH các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người, đồng thời nó còn có tính chất tiết kiệm). BH PNT không có tính tiết kiệm và chỉ BH rủi ro khách quan, bất ngờ.
Chúng ta có thể thấy rõ điều muốn nói ở trên qua sơ đồ sau:
b) Phân loại bảo hiểm phi nhân thọ: Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm ý nghĩa mà các sản phẩm BH được phân chia thành các nhóm như sau:
*) Nếu căn cứ theo hình thức tham gia, BH phi nhân thọ có hai loại: Bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Phần lớn các sản phẩm BH PNT là BH tự nguyện. Việc tham gia BH hay không phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia BH. Các DNBH đáp ứng được hay không cũng tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của DN đó. Trong khi đó, BH bắt buộc bao gồm các sản phẩm BH mà pháp luật qui định các tổ chức cá nhân phải tham gia BH và các DNBH phải phục vụ theo một số điều khoản, mức phí và mức trách nhiệm BH theo qui định của nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại BH bắt buộc như: BH bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách trên xe, BH trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật, BH trách nhiệm nghề nghiệp của DN môi giới BH, một số loại BH cháy nổ.
*) Nếu căn cứ theo đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ có ba loại: BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự và BH con người phi nhân thọ.
- Bảo hiểm tài sản: Là loại BH có đối tượng là tài sản ( có thể là hữu hình hoặc vô hình). Những tài sản hữu hình tồn tại dưới hình thể vật chất ( nhà cửa, phương tiện vận chuyển, đường xá, cầu cống bến cảng, cây trồng vật nuôi…) và tài sản vô hình là phát minh, sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa…Với sự đa dạng đó, cho đến nay không phải tất cả các loại tài sản đều đã có thể được BH, song cũng đã hình thành nhiều loại BH tài sản khác nhau.
Hiện nay, ở Việt nam có những nghiệp vụ BH tài sản cơ bản sau: + Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; BH hàng hóa vận chuyển nội địa.
+ BH thân tàu ( tàu biển, tàu hoạt động nội thủy, sông hồ,thuyền đánh cá)
+ Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
+ Bảo hiểm thân máy bay.
+ Bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng; Bảo hiểm lắp đặt.
+ Bảo hiểm tài sản trong vận chuyển dầu, thăm dò khai thác dầu khí.
+ Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt.
+ Bảo hiểm nông nghiệp ( cây trồng vật nuôi).
+ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
+ Một số nghiệp vụ khác: BH tiền trong két, nhà tư nhân,trộm cắp,tín dụng …
Đặc trưng cơ bản của BH tài sản: Người được BH có thể do chủ sở hữu hoặc người được giao quyền chiếm hữu sử dụng, người thừa kế. BH tài sản có thể nhận BH một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản , không BH lớn hơn giá trị tài sản đó. Trong mọi trường hợp, số tiền bồi thường không thể lớn hơn thiệt hại của tài sản đó trong một sự cố BH.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS): TNDS là một loại trách nhiệm pháp lý, nó phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. TNDS được coi là biện pháp cưỡng chế, nó được áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật. Nhìn chung TNDS là trách nhiệm bồi thường thiệt hại .Tại điều 3.10 Bộ Luật dân sự nước ta đã chỉ rõ: “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra. Người gây thiệt hại… phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại”.TNDS có hai loại TNDS theo hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Một số nghiệp vụ BH TNDS cơ bản:
+ BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 và hành khách trên xe.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ tàu biển.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ hãng hàng không
+ Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ thầu đối với người thứ ba trong xây lắp.
Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm TNDS: Đối tượng BH trong BH TNDS mang tính trìu tượng: Khi thiết lập hợp đồng thì đối tượng BH chưa xuất hiện. Nó chỉ biểu hiện cụ thể khi có sự cố xảy ra làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Phương thức BH có thể là có giới hạn (được ấn định trong hợp đồng), hoặc không giới hạn (không ấn định trước mà bồi thường theo phát sinh trách nhiệm)
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại BH có mục đích thanh toán những khoản trợ cấp hoặc số tiền ấn định cho người được BH hoặc người được thụ hưởng BH, trong trường hợp xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được BH. Những rủi ro trong BH con người PNT là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, tử vong. Vì lý do giá trị con người là không thể xác định bằng tiền, nên trong BH con người không có khái niệm BH trùng, và thuật ngữ “chi trả BH” hoặc “thanh toán tiền BH” được thay thế cho “bồi thường bảo hiểm”.
- Một số loại BH con người ở Việt Nam hiện nay: BH tai nạn con người, BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, BH sinh mạng cá nhân, BH toàn diện học sinh, BH tai nạn hành khách, BH tai nạn thuyền viên, BH khách du lịch…..
- Đặc trưng của BH con người PNT: Đối tượng của BH con người PNT là tính mạng, sức khỏe: Đây là một phạm trù phi giá trị hóa.Số tiền BH, được ấn định trước trên hợp đồng BH. Khi có sự kiện BH, các khoản tiền BH được thanh toán mang tính chất khoán chứ không phải là bồi thường thiệt hại.
Việc phân loại như trên sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm BH khác nhau. Mặt khác, nó giúp các DNBH quản lý tốt nghiệp vụ và tiến hành tổ chức kinh doanh khoa học và có hiệu quả cao hơn.
1.1.1.3. Đặc điểm và vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
a) Đặc điểm của bảo hiểm phi nhân thọ
- Quá trình hoạt động KDBH phi nhân thọ, là quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ của các DNBH.
- Trên phương diện xử lý rủi ro, BH là loại biện pháp rất có hiệu quả. Cơ chế hoạt động là chuyển giao, phân tán rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Cơ chế đó khiến cho việc gánh chịu rủi ro, đặc biệt là những rủi ro trầm trọng vượt quá khả năng chống đỡ của mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức trở nên dễ dàng hơn.
- Đã có ý kiến cho rằng, ở một góc độ nào đó BH PNT là “kinh doanh rủi ro”điều này đúng nhưng chưa đủ. Một trong những đặc đi