Bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng giữa một cá nhân và m ột công ty bảo hiểm
nhân thọ để bảo hiểm cho bản thân mình hoặc người thân, hoặc giữa một tổ chức với
công ty bảo hiểm nhân thọ để bảo hiểm cho nhân viên của mình với mục đích là đảm bảo
an toàn tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Sau khi ký hợp đồng với công ty bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm
được bảo hiểm ngay lập tức với số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng, nghĩa là: khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ chi trả đầy đủ số tiền bảo hiểm mà khách
hàng đã mua, bất kể khách hàng tham gia bao lâu, nộp bao nhiêu phí, miễn là khách hàng
khai trung thực đầy đủ khi điền hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm đầy đủ,
đúng hạn. Tuy nhiên, đa số người tham gia bảo hiểm đều sống bình thường cho đến khi
đáo hạn hợp đồng. Khi đó, công ty bảo hiểm vẫn chi trả quyền lợi bảo hiểm theo hợp
đồng bảo hiểm đã ký kết.
14 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2624 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phòng chống trục lợi bảo hiểm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN LÝ THỰC HÀNH BẢO HIỂM
Đề tài:
PHÒNG CHỐNG TRỤC LỢI
BẢO HIỂM
Nhóm 109:
1/ Võ Minh Quang
2/ Đinh Hoàng Quân
3/ Lại Thị Quế
4/ Trần Ngọc Sơn
5/ Nguyễn Tiến Sỹ
6/ Giang Chỉ Tài
7/ Lê Chí Thành
8/ Nguyễn Văn Thành
9/ Hồ Lê Thanh Thảo
10/ Nguyễn Quốc Thái
PHÒNG CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM
I. BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG BẢO HIỂM NHÂN
THỌ
1/ Khái niệm bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng giữa một cá nhân và một công ty bảo hiểm
nhân thọ để bảo hiểm cho bản thân mình hoặc người thân, hoặc giữa một tổ chức với
công ty bảo hiểm nhân thọ để bảo hiểm cho nhân viên của mình với mục đích là đảm bảo
an toàn tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Sau khi ký hợp đồng với công ty bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm
được bảo hiểm ngay lập tức với số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng, nghĩa là: khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ chi trả đầy đủ số tiền bảo hiểm mà khách
hàng đã mua, bất kể khách hàng tham gia bao lâu, nộp bao nhiêu phí, miễn là khách hàng
khai trung thực đầy đủ khi điền hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm đầy đủ,
đúng hạn. Tuy nhiên, đa số người tham gia bảo hiểm đều sống bình thường cho đến khi
đáo hạn hợp đồng. Khi đó, công ty bảo hiểm vẫn chi trả quyền lợi bảo hiểm theo hợp
đồng bảo hiểm đã ký kết.
2/ Đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ
Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời khá lâu là bảo hiểm nhân thọ với lịch sử
phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trường bảo
hiểm nói chung.
Bảo hiểm nhân thọ ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng
không thể thiếu được trên thị trường bảo hiểm.
Thực tế tốc độ phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ trên thế giới không
ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ bảo
hiểm.
a> Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ với
bảo hiểm phi nhân thọ.
Tham gia bảo hiểm nhân thọ người mua có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm cho
người bảo hiểm theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số
tiền lớn cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo
hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất
định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được
bảo hiểm.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một
cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác
với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những tích luỹ về mặt tài
chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn
được đảm bảo về mặt tài chính. Đó chính là đặc điểm cơ bản của bảo hiểm nhân thọ mà
các loại hình tiết kiệm khác không có được.
b> Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của
người tham gia bảo hiểm
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp
phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro, bảo hiểm nhân thọ
do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác
nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm.
Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưởng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm
là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh
vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời
gian ấn định trước...
Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp
để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục
cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng
hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty bảo hiểm (số tiền cho
vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm).
c> Các hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ xuất phát từ mục đích của
người tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của
công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ
ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản
thân khi tham gia bảo hiểm.
d> Quá trình định phí bảo hiểm nhân thọ khá phức tạp
Để đưa được sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đến với người tiêu dùng, người bảo
hiểm đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi
phí quản lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên
phí bảo hiểm nhân thọ, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
Tuổi thọ bình quân của con người
Số tiền bảo hiểm
Thời hạn tham gia bảo hiểm
Phương thức thanh toán
Lãi suất đầu tư
Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
Đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, để định giá phí bảo hiểm nhân thọ thì phải
dựa trên từng vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị
của mỗi nước khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của
từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của
mỗi loại sản phẩm trên thị trường...
e> Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã
hội nhất định
Những điều kiện về kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức
độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không
những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu cầu cao
hơn.
Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu
tư vào bảo hiểm nhân thọ
Những điều kiện xã hội:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã
hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và
dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát
triển của bảo hiểm nhân thọ.
II. KHÁI NIỆM TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ CÁC CÁCH
THỨC BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1/ Khái niệm trục lợi bảo hiểm
Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất
chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu
nại bảo hiểm”. Như vậy, nói đến trục lợi bảo hiểm là phải nói đến hành vi của tổ chức, cá
nhân được thực hiện một cách cố ý nhằm thu lợi bất chính. Nhận dạng hành vi trục lợi
bảo hiểm phải chú trọng đến việc tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ bảo hiểm (bao
gồm bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm) nhằm thu lợi
bất chính cho mình. Tổ chức, cá nhân được đề cập trong khái niệm trục lợi bảo hiểm trên
đây có thể là bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm, thậm
chí có thể là hành vi gian lận trong bảo hiểm của đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm. Cho dù là tổ chức, cá nhân nào đi chăng nữa, nhưng nếu muốn thực hiện
được hành vi trục lợi bảo hiểm, thì các chủ thể này cũng phải tham gia vào quan hệ bảo
hiểm.
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định: Trục lợi bảo hiểm là hành vi kiếm lời bất
hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
2/ Đối tượng tham gia trục lợi bảo hiểm
a> Người ngoài Công ty
Người được bảo hiểm, người thụ hưởng, nhà cung cấp dịch vụ ( sửa chữa, y tế),
các nhà quản lý, bên thứ ba
Bên mua bảo hiểm đưa ra thông tin sai lệhc về bản thân, người được bảo hiểm,
người thụ hưởng khi mua bảo hiểm
Các nhà cung cấp dịch vụ: tăng mức sửa chữa, điều chỉnh lên mức không cần
thiết, lắp đặt, sử dụng thay thế các thiết bị, điều trị bệnh nhân với các loại thuốc, biện
pháp điều trị đắt đỏ;
Bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng và người cung cấp
dịch vụ thống nhất tăng mức yêu cầu bồi thường;
Bên mua bảo hiểm cấu kết với các đại lý hoặc cán bộ của công ty bảo hiểm cung
cấp thông tin sai lệch về người được bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm và các khiếu nại
đòi bồi thường.
b> Nội bộ Công ty (cán bộ của công ty bảo hiểm, đại lý bảo hiểm)
Nộp hoặc chấp nhận các hợp đồng ảo;
Chiếm đoạt phí bảo hiểm ( không nộp cho doanh nghiệp);
Chấp nhận các điều kiện khiếu nai bồi thường ảo và chiếm đoạt số tiền bồi
thường, số tiền bảo hiểm dự kiến trả cho khách hàng;
Có những quan hệ bất chính với nhà cung cấp dịch vụ như tư vấn, các mối quan
hệ có thể dẫn đến các mâu thuẫn về lợi ích
3/ Nguyên nhân và hậu quả của trục lợi bảo hiểm
a> Nguyên nhân
Do những khe hở của pháp luật, do tính răn đe về pháp luật đối với hành vi trục
lợi chưa cao và do thực hiện phát luật chưa nghiêm, thiếu sự kiểm tra, kiểm soát và xử lý,
nên nhiều người nảy sinh hành vi gian lận.
Do hệ thống quản trị, điều hành, thiết hế, bán sản phẩm, bồi thường của doanh
nghiệp bảo hiểm chưa tốt;
Do một số đại lý, cán bộ thiếu đạo đức nghề nghiệp hoặc do yếu kém về năng lực
chuyên môn khi xét nhận bảo hiểm và giải quyết bồi thường bảo hiểm;
Nhận thức của một số người có ý đồ trục lợi về pháp kuật còn nhiều yếu kém,
nhất là những văn bản pháp quy về bảo hiểm. Nhiều người còn nhận thức rất mơ hồ vè
bảo hiểm và họ cho rằng quỹ bảo hiểm cũng giống như quỹ phúc lợi. Cho nên đã có
nhiều trường hợp nói sai sự thật để giúp nạn nhân nhận được quyền lợi bảo hiểm,…
Khó khăn về địa lý: không gian địa lý cũng là nguyên nhân phát sinh gian lận bảo
hiểm. Đối với những vụ tổn thất xảy ra ở xa, hoang vắng, ít người qua lại ( trong bảo
hiểm xe cơ giới, tàu thuyền,…) việc giữ nguyên hiện trường là rất khó do vậy sự thay đổi
tình tiết hiện trường có lợi cho người tham gia bảo hiểm dễ xảy ra.
Hạn chế trong công tác trao đổi thông tin thị trường: Thị trường bảo hiểm luôn sôi
động, phức tạp, tình hình cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên các doanh nghiệp luôn giữ
bí mật thông tin. Việc trao đổi những thông tin cần thiết về khách hàng giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm là rất hạn chế. Vì vậy, một đối tượng tài sản nào đó có thể tham gia bảo
hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm và khi tổn thất xảy ra họ đã nhận được tiền bồi
thường ở tất cả các công ty bảo hiểm.
Do lỗi vô tình hay cố ý của các nhân viên bảo hiểm: họ có thể vô tình ghi sai ngày
tham gia bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc do thiếu trách nhiệm nên đã
không đánh giá đúng được mức độ trầm trọng của rủi ro. Cũng có thể nhân viên bao hiểm
thông đồng với khách hàng trục lợi bảo hiểm. Họ có thể đáng gái cao mức độ tổn thất
hoặc vạch đường đi nước bước cho khách hàng để lợi dụng các kẽ hở về giấy tờ, thủ tục
giám định, bồi thường nhằm trục lợi
Do sự thông đồng giữa những người tham gia bảo hiểm có hành vi gian lận với
những người có liên quan như: y, bác sỹ, những người làm chứng trong các vụ tổn thất
b> Hậu quả của trục lợi bảo hiểm
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, hậu quả có thể tính toán được do hành vi trục lợi
bảo hiểm là làm giảm lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh, thậm chí còn gây tác động xấu
đén uy tín của doanh nghiệp.
Đối với khách hàng là những người trung thực sẽ bị thiệt thòi về quyền lợi. Bởi
vì, phí bảo hiểm mà họ phải nộp dùng để chi trả cho cả những khoản tiền gian lân không
được phát hiện ra. Do vậy, doanh nghiệp bảo hiểm nào có nhiều vụ gian lận sẽ có mức
phí bảo hiểm cao hơn những doanh nghiệp kiên quyết chống và loại trừ những kẻ trục lợi
bảo hiểm
Đối với xã hội: Gian lận về bảo hiểm là một nguy cơ về đạo đức, làm tha hoá,
biến chất cán bộ, làm cho môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh và thiếu công bằng.
Bảng số liệu về tình hình trục lợi bảo hiểm ở VN giai đoạn 2007 -2009
Lĩnh vực
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Số vụ phát
hiện
Số tiền
(Tr.đ)
Số vụ phát
hiện
Số tiền
(Tr.đ)
Số vụ phát
hiện
Số tiền
(Tr.đ)
1. Lĩnh
vực PNT
8.095 75.400 10.688 257.988 8.775 86.792
2. Lĩnh
vực NT
1.207 24.293 4.114 74.296 5.932 145.935
3. Tổng 9.302 99.693 14.802 332.284 14.707 232.727
4/ Hình thức trục lợi bảo hiểm
Hiện nay hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tham gia bảo hiểm ngày càng phổ
biến nhưng cũng có gian lận trong lĩnh vực này, thường gọi là trục lợi bảo hiểm
Trục lợi bảo hiểm, hiểu một cách đơn giản, là tìm cách để kiếm lợi bất hợp pháp trong
kinh doanh bảo hiểm và tham gia bảo hiểm; thường được biểu hiện dưới 3 dạng sau:
Trục lợi bồi thường
Trục lợi phí bảo hiểm
Trục lợi của nhà cung cấp dịch vụ
a> Khai tăng trị giá tổn thất
Hành vi này thường được thực hiện bằng cách lợi dụng tổn thất xảy ra để làm hư
hỏng thêm tài sản được bảo hiểm nhằm được trả tiền bồi thường cao hơn, hoặc làm hư
hỏng toàn bộ tài sản đã được bảo hiểm để được bồi thường tài sản có trị giá lớn hơn. Một
cách khác là tổn thất ít, lẽ ra không được bồi thường, nhưng làm cho tổn thất vượt quá
mức miễn thường để được bồi thường. Ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa bằng đường
biển quy định: “Mức miễn thường là 0,35% trách nhiệm qua cân tại cảng”. Trên thực tế,
trọng lượng hàng hóa bị thiếu là 0,34% nên không được bồi thường. Bên mua bảo hiểm
có thể trục lợi bảo hiểm qua việc “tìm cách” nâng con số này lên trên 0,35% để được bồi
thường.
b> Đã xảy ra tổn thất mới đi mua bảo hiểm
Hình thức trục lợi bảo hiểm này không phải là hiếm. Đối tượng bảo hiểm (máy
móc, phương tiện vận chuyển…) đã bị tổn thất tức là sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, bên
mua bảo hiểm mới đi giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường hoặc được trả tiền
bảo hiểm. Ví dụ: Tàu biển đã bị đắm, toàn bộ hàng hóa bị tổn thất, chủ hàng mới đi mua
bảo hiểm. Thực tế cho thấy, có khi người bán bảo hiểm không biết là tàu đã bị đắm,
nhưng phần lớn là có sự “bắt tay… bẩn” với nhau để ghi ngày giao kết hợp đồng bảo
hiểm trước ngày xảy ra đắm tàu, làm cho hợp đồng bảo hiểm có giá trị pháp lý. Đúng ra
là hợp đồng này vô hiệu vì sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, đối tượng bảo hiểm (ở đây là hàng
hóa) không còn tồn tại (Điều 22, Luật Kinh doanh bảo hiểm)
c> Bảo hiểm trùng
Bảo hiểm trùng là việc bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai
doanh nghiệp bảo hiểm hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều
kiện và sự kiện bảo hiểm. Trong trường hợp này (bảo hiểm trùng), theo Luật Kinh doanh
bảo hiểm thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách
nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo
hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường
của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Khi
xảy ra tổn thất cho tài sản mà rủi ro gây ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và trong thời
gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, do các doanh nghiệp bảo hiểm không biết bên
tham gia bảo hiểm đã “bắt cá nhiều tay” nên cùng trả tiền bảo hiểm mà kết quả là bên
mua bảo hiểm được bồi thường gấp nhiều lần trị giá tài sản. Ví dụ: Một tài sản trị giá 10
tỷ đồng được mua bảo hiểm ở 3 doanh nghiệp bảo hiểm với số tiền bảo hiểm ở mỗi
doanh nghiệp là 10 tỷ đồng. Khi có tổn thất toàn bộ, 3 công ty phải trả 30 tỷ đồng, trong
khi lẽ ra chỉ phải cùng nhau chi trả tổng cộng là 10 tỷ đồng.
d> Cố ý gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm
Đây là hình thức trục lợi bảo hiểm rất tinh vi, có kiến thức nghiệp vụ cao về bảo
hiểm, được chuẩn bị kỹ lưỡng, số tiền trục lợi thường lớn, rất khó điều tra hoặc tìm ra
được sự thật thì tốn nhiều công sức, tiền của. Một cách khá phổ biến là tìm cách hủy hoại
tài sản trong một hoàn cảnh được dàn dựng như thật. Ví dụ như cố ý đánh đắm tàu biển
trong một tình huống được tạo ra rất “hợp lý” (thời tiết xấu, hỏng máy, cố ý đâm va…).
Tất nhiên là kẻ trục lợi nắm vững mọi điều khoản của hợp đồng bảo hiểm để chắc chắn
rủi ro không nằm trong trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong
hợp đồng để không bị từ chối bồi thường. Kiểu trục lợi này “rất nguy hiểm”, với hậu quả
nghiêm trọng về mặt tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm khi có thông đồng giữa bên
mua bảo hiểm và những “con sâu” trong doanh nghiệp bảo hiểm để nâng giá trị tài sản
được bảo hiểm trước khi tham gia bảo hiểm. Chẳng hạn như, một tàu biển trị giá 30 triệu
đô-la, được “bắt tay” nâng lên 32 triệu đô-la; sau đó tàu bị đắm rất “hợp lý” và “ngẫu
nhiên”, số tiền bảo hiểm phải trả là 32 triệu đô-la (gian lận 2 triệu đô-la!). Một cách làm
khác là thay thế những thiết bị đắt tiền của tài sản được bảo hiểm bằng những đồ “rởm”
sau đó hủy hoại tài sản đó. Dĩ nhiên là số tiền bồi thường sẽ được tính cho đồ “xịn” như
khi tham gia bảo hiểm. Cách trục lợi này thường xảy ra với các tài sản có giá trị cao, có
lắp đặt thiết bị đắt tiền như tàu thủy, xe chuyên dụng…
e> Khai ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm trước thời hạn hợp đồng
Hợp đồng bảo hiểm phải có thời hạn bảo hiểm, tức là nếu trong khoảng thời gian
đó có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. Ví dụ: Một “Giấy chứng
nhận bảo hiểm môtô-xe máy” có ghi thời hạn bảo hiểm: 24 tháng, từ 8 giờ 50 phút ngày
28-9-2005 đến 8 giờ 50 phút ngày 28-9-2007. Nếu tai nạn cho người đi xe máy xảy ra
ngày 29-9-2007 thì kẻ trục lợi bảo hiểm sẽ “đạo diễn” sao cho tai nạn xảy ra trước 8 giờ
50 phút ngày 28-9-2007.
g> Lập hồ sơ giả
Cách trục lợi này thường phải có “tay trong” ở các doanh nghiệp bảo hiểm và “bắt
tay” với đường dây sửa chữa đối tượng bảo hiểm là tài sản như phương tiện vận tải, máy
móc, thiết bị… Tuy không có tổn thất thực tế đối với đối tượng bảo hiểm nhưng vẫn có
đầy đủ chứng từ hợp lệ (hóa đơn sửa chữa, mua vật tư, phụ tùng…) với đầy đủ chữ ký
thật, dấu thật, chứng từ thật hoàn toàn nhưng chỉ có “sự thật” là… giả.
h> Tạo dựng hiện trường giả
Trục lợi bảo hiểm theo cách này thường biểu hiện ở việc tạo ra một hiện trường
như… thật. Ví dụ: Giả vờ bị mất cắp hàng hóa thì khóa cửa kho bị phá, niêm phong hầm
hàng bị mở, mái kho bị dỡ ra… Có trường hợp còn “đóng kịch” là bị cướp tài sản, bị trói,
nhét giẻ vào miệng; tự đốt nhà kho sau khi tẩu tán tài sản…, thay hàng hóa, phương tiện
vận chuyển bị hư hỏng nhưng không tham gia bảo hiểm bằng hàng hóa, phương tiện vận
chuyển có tham gia bảo hiểm để lập sơ đồ, bản ảnh, bản vẽ… nhằm hợp lý hóa hồ sơ. Ví
dụ như đánh tráo biển số của xe ôtô không tham gia bảo hiểm nhưng bị tai nạn bằng biển
số của xe có tham gia bảo hiểm nhưng không bị tai nạn… Trong bảo hiểm nhân thọ, đã
xảy ra việc tự gây thương tích như gẫy chân, tay, vỡ đầu… sau khi đã tham gia bảo hiểm
với số tiền bảo hiểm rất lớn, nhưng khi doanh nghiệp bảo hiểm nghi ngờ, phối hợp với
cảnh sát giao thông để dựng lại hiện trường tai nạn thì thấy không thể… gẫy chân, tay, vỡ
đầu được vì khai là do ngã xe máy mà xe và mặt đường không có một vết xây sát nào và
khai thời gian ngã vào giờ tan tầm mà lại không có ai trông thấy để làm chứng.
Tham khảo nguồn : Tạp chí HH Việt Nam
III. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN
THỌ
1/ Các giải pháp phòng chống trục lợi
a> Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm nhân thọ
Quá trình giám định và bồi thường, chi trả bảo hiểm phải thực hiện đúng nguyên
tắc và trình tự mỗi khâu: nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó hoặc không rõ thời
gian, không gian trong các vụ tổn thất khách hàng cần xác minh lại ngay. Nếu thấy cần
thiết phải báo ngay để doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức xác minh, điều tra cho