Đề tài Phương hướng đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ

“Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 109 Hiến pháp 1992) Là một cơ quan nằm trong hệ thông các cơ quan của bộ máy nhà nước, việc tổ chức và hoạt động của Chính phủ cũng không nằm ngoài các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những nguyên tắc đó là những phương hướng mang tính chỉ đạo trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng, được xác định trong hiến pháp và trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Tòa án Nhân dân Hiện nay, các nguyên tắc này được quy định trong chương I hiến pháp 1992 và trong Chương I của các Luật kể trên. Những nguyên tắc đó là: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; bình đẳng đoàn kết và giúp đõ các dân tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là nguyên tắc tập quyền. Trong đó, đối với tổ chức hoạt động của Chính phủ thì nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, điều này được thể hiện trong trong Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ 2001 :“Chính phủ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Chính phủ về bản chất là một thiết chế quyền lực do Quốc hội lập ra thông qua các hình thức là bầu và phê chuẩn các thành viên Chính phủ. Chính phủ do Quốc hội lập ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ cũng do Quốc hội quy định, trong kì họp thư nhất của mỗi khóa, Quốc hội quy định cơ cấu tổ chức của Chính phủ cho phù hợp trên cơ sở căn cứ vào quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành.

doc11 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5439 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phương hướng đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Cơ sở lí luận về tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở nước ta hiện nay. “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 109 Hiến pháp 1992) Là một cơ quan nằm trong hệ thông các cơ quan của bộ máy nhà nước, việc tổ chức và hoạt động của Chính phủ cũng không nằm ngoài các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những nguyên tắc đó là những phương hướng mang tính chỉ đạo trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng, được xác định trong hiến pháp và trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Tòa án Nhân dân… Hiện nay, các nguyên tắc này được quy định trong chương I hiến pháp 1992 và trong Chương I của các Luật kể trên. Những nguyên tắc đó là: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước; nguyên tắc tập trung dân chủ; bình đẳng đoàn kết và giúp đõ các dân tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là nguyên tắc tập quyền. Trong đó, đối với tổ chức hoạt động của Chính phủ thì nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, điều này được thể hiện trong trong Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ 2001 :“Chính phủ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Chính phủ về bản chất là một thiết chế quyền lực do Quốc hội lập ra thông qua các hình thức là bầu và phê chuẩn các thành viên Chính phủ. Chính phủ do Quốc hội lập ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ cũng do Quốc hội quy định, trong kì họp thư nhất của mỗi khóa, Quốc hội quy định cơ cấu tổ chức của Chính phủ cho phù hợp trên cơ sở căn cứ vào quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành. II. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Chính phủ hiện hành. 1. Thực trạng về tổ chức. 1.1 Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ Trên cơ sở kế thừa mô hình tổ chức Chính phủ qua lịch sử phát triển của đất nước, đồng thời khẳng định quan điểm đổi mới về tổ chức và họa động của Chính phủ, tổ chức Chính phủ của chúng ta đang có sự đổi mới, hoàn thiện theo xu hướng thành lập bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, và trên thực tế đã được chứng minh đó là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu hướng cải tổ của Chính phủ trong các nhà nước hiện đại. Về cơ cấu tổ chức, Chính phủ nước ta cũng như ở đa số các nước được cấu thành từ những cơ quan nhất định. Sự hiện diện các cơ quan này theo nghĩa đích thực của cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước là để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước. Trong hoạt động của Chính phủ, các cơ quan này thực hiện hai mặt công tác: tham gia hoạt động của tập thể Chính phủ và thực hiện quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Theo Hiến pháp hiện hành thì Chính phủ gồm hai loại cơ quan: các bộ và cơ quan ngang bộ (Điều 2 Luật tổ chức Chính phủ) là cơ quan của Chính phủ và cơ quan thuộc thuộc Chính phủ (Điều 31) Hiện nay, trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, nghị quyết số 01/2007/QH12 ngày 31/07/2007 Quốc hội khóa XII (2007- 2012) về tổ chức của chính phủ và số phó thủ tướng chính phủ nhiệm kỳ khóa XII thì cơ cấu Chính phủ có sự sắp xếp lại theo xu hướng thu hẹp lại với việc thành lập các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (Đến cuối năm 1991, Hội đồng bộ trưởng có 28 bộ và cơ quan ngang bộ; Quốc hội khóa XI chỉ còn 20 bộ và 6 cơ quan ngang bộ và tại Quốc hội khóa XII (2007- 2012) thì chỉ còn 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ(1)). Quốc hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Mỗi bộ và cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý đối với ngành và lĩnh vực nhât định. Theo nghị định 178/2007/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ và các cơ quan ngang bộ (gọi tắt là bộ), cơ cấu bộ gồm: _Vụ, thanh tra, văn phòng bộ; _Cục, tổng cục _Các tổ chức sự nghiệp Kết quả và tác dụng của mô hình tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã được thực tế khẳng định. Đó chính là sự thống nhất giữa đầu mối hoạch định chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các chuyên ngành, lĩnh vực với nhau, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phủ hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Bộ máy của Chính phủ được tinh giảm so với thời ký trước, số lượng các Bộ giảm bớt đầu mối nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định và liên tục của quá trình quản lý. 1.2 Về thành viên của Chính phủ: Thành viên của Chính phủ gồm: Thủ tướng, các Phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Số lượng Phó thủ tưởng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quôc hội quyết định. (Điều 3 Luật tổ chức Chính phủ). Hiện nay chúng ta có một Thủ tướng, 5 Phó thủ tướng, 18 Bộ trưởng và 4 thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Hiến pháp 1992 đã có một bước tiến mới về cách thức thành lập và thay đổi thành viên Chính phủ. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu ra theo đề nghị của Chủ tịch nước; Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ do Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng, Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội ra quyết định bổ nhiệm. (các điều 84,103 và 114). Trong thời gian Quốc hội không họp thì Ủy ban thường vụ quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng về việc bổ nhiệm, miên nhiệm, cách chức, cho từ chức, sau đó báo cáo lại Quốc hội. Chủ tịch nước có quyền không đồng ý với quyết định của Ủy ban thường vụ Quốc hội và yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định trong kỳ họp gần nhất. So sánh với các mối quan hệ tương tự trong hiến pháp 1980, ta có thấy thấy quy trình thành lập Chính phủ trong Hiến pháp năm 1992, một mặt tiếp tục giữ vững những nguyên tắc về tổ chức Chính phủ trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Hiến pháp 1980, mặt khác có những đổi mới cần thiết, đó là: ở hiến pháp năm 1980 bỏ việc Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng được chọn (đề nghị) các Phó chủ tịch và Bộ trưởng để Quốc hội phê chuẩn thì nay đã quy định trở lại việc này, khẳng định sự tương cường vị trí, vai trò của người đứng đầu Chính phủ; ngược lại, nếu như Hội đồng nhà nước theo hiến pháp 1980 có quyền quyết định đề nghị của Thủ tướng về việc thay đổi các thành viên khác của Chính phủ, sau đó trình Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước không có quyền phủ quyết thì nay Chủ tịch nước lại có quyền đó (theo điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Quy định này một mặt vẫn đảm bảo sự kịp thời trong việc xử lí các tình huống phát sinh trong hoạt động quản lý, mặt khác, nhằm đảm bảo sự giám sát của Quốc hội và Chủ tịch nước đối với bộ máy hành chính nhà nước, tránh những xáo trộn không cần thiết trong bộ máy quản lý. 1. Xem phụ lục trang 9 Như vậy, cách thức và trình tự thành lập cũng như sự thay đổi các thành viên khác của Chính phủ trong thời gian Quốc hội không họp như trên về cơ bản là hợp lý. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp tiến hành gần đây (12/2001) bỏ quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức đối với các thành viên khác của Chính phủ (do duy nhất Quốc hội thực hiện tại kỳ họp); nội quy kỳ họp Quốc hội mới (năm 2002) quy định ngoài sự giới thiệu, đề nghị của Chủ tịch nước đối với chức danh Thủ tướng và Thủ tướng đối với phó thủ tướng và các Bộ trưởng, các đại biểu có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ trong Chính phủ theo tôi là chưa hợp lí vì như vậy sẽ không bảo đảm xử lí kịp thời đối với các trường hợp cần thay đổi Phó thủ tướng, các Bộ trưởng và không đảm bảo cho sự kiểm soát của Chủ tịch nước đối với Chính phủ. Vấn đề các thành viên của Chính phủ đồng thời phải là đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước là một vấn đề có tính nguyên tắc của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, càng về sau, do đòi hỏi thực tiễn quản lý năng động, đã có cơ chế giám sát và trách nhiệm chặt chẽ hơn nên yêu cầu thành viên Chính phủ phải là đại biểu Quốc hội có chiều hướng giảm đi, và hiện nay, thì các thành viên của Chính phủ “ngoài Thủ tướng các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội” (Điều 110 Hiến pháp 1992), đã thể hiện quan điểm phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước đồng thời đảm bảo hiệu quả hoạt động cho thành viên của Chính phủ và đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện dễ dàng cho sự thay đổi thành viên Chính phủ, không bị gò bó như trước. Bên cạnh những mặt ưu điểm, tổ chức Chính phủ của ta hiện nay vân còn những bất cập, cần được khắc phục. Mặc dù Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trên thực tế chưa thực sự đảm bảo để Chính phủ thực hiện được vai trò này, những quy định của pháp Luật chưa thể hiện được thực tế sự phân công và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước ta trong tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Xu hướng thành lập bộ, cơ quan quản lý đa ngành đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên, trong cơ cấu tổ chức cảu Chính phủ nước ta hiện nay vẫn còn các bộ quản lý đơn ngành như Bộ thủy sản, Ủy ban dân tộc và miền núi, Ủy ban thể dục thể thao. Cho dù các bộ quản lý đơn ngành này vẫn phát triển ổn định và phát huy được hiệu quả hoạt động nhưng điều này không phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, Chính phủ gồm hai loại cơ quan là bộ và các cơ quan ngang bộ (Điều 2) và các cơ quan thuộc Chính phủ (Điều 31). Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên của Chính phủ còn thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ không phải là thành viên của Chính phủ, xét dưới góc độ cấu trúc của Chính phủ là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất thì sự phân biệt như trên có nhiều bất cập, thể hiện: Với tư các là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất, Chính phủ phải bao quát toàn bộ các ngành, lĩnh vực quản lý, nghĩa là khi bàn bạc và quyết định một vấn đề quản lý nhà nước nào đó, tập thể Chính phủ phải gồm tất cả các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực. Việc quy định Chính phủ chỉ gồm các bộ và cơ quan ngang bộ mà không có các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước (trước đây khi chưa sắp xếp lại thì còn có rất nhiều cơ quan như: Tổng cục bưu điện, Ban tôn giáo… hiện nay còn hai cơ quan là Tổng cục du lịch và Tổng cục thống kê) là chưa đầy đủ. Là thành viên của Chính phủ, được tham gia các vấn đề quản lý nhà nước, song các cơ quan như Ngân hàng nhà nước, Văn phòng Chính phủ về bản chất không phải là cơ quan quản lý nhà nước (Điều 30 Luật tổ chức Chính phủ quy định: “Văn phòng chính phủ là bộ máy giúp việc cho Chính phủ”. Sự tham gia của các cơ quan này với tư cách thành viên trong hoạt động tập thể Chính phủ để quyết định các vấn đề quản lý nhà nước là không phù hợp. Việc cơ cấu lại các cơ quan của Chính phủ dẫn đến một thực tế là bộ máy thuộc Chính phủ đã có sự sắp xếp lại một cách cơ bản nhưng vẫn còn các cơ quan thuộc Chính phủ nhưng lại không thuộc cơ cấu tổ chức của Chính phủ hiện hành. Có nhiều cơ quan thuộc Chình phủ về bản chất chỉ là các tổ chức sự nghiệp như các học viện, trung tâm, tổng công ty, cá tổ chức tư vấn phối hợp do Chính phủ thành lập và thực hiện một số quyền hạn, nhiệm vụ trên một số ngành và lĩnh vực mà không thuộc chức năng, nhiệm vụ của bất kỳ Bộ, cơ quan ngang bộ nào, ví dụ như Tổng cục khí tượng thủy văn, Viện khoa học xã hội, Tổng cục du lịch… Việc xắp xếp các cơ quan này vào phạm trù cơ quan thuộc Chính phủ đã làm lẫn lộn giữa các cơ quan có chức năng quản ký nhà nước về ngành hoặc lĩnh vực công tác với các tổ chức thuần túy sự nghiệp. 2. Thực trạng về hoạt động của Chính phủ Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ quy định: “Hiệu quả hoạt động của Chính phủ được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên Chính phủ ” Khẳng định hiệu quả hoạt động thực tế của Chính phủ phải thể hiện thông qua 3 hình thức: Thông qua phiên họp Chính phủ, thông qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ và thông qua hoạt động của các thành viên chính phủ. 2.1 Phiên họp Chính phủ. Theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ thì: “Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ” (Điều 32). Hình thức hoạt động của tập thể Chính phủ là phiên họp của Chính phủ. Chính phủ họp thường kì mỗi tháng một lần. Ngoài ra có thể họp bất thường theo quyết định của Thủ tướng hoặc theo yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên Chính phủ. Thành viên Chính phủ có trách nhiệm tham dự đầy đủ các phiên họp, nếu vắng mặt trong phiên họp hoặc vắng mặt một thời gian của phiên họp thì phải được Thủ tướng đồng ý. Phiên họp là nơi tập trung trí tuệ của tập thể Chính phủ, những người trực tiếp nắm quyền quản lí hành chính trên phạm vi một số ngành hoặc lĩnh vực nhất định đồng thời có sự đóng góp ý kiến của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể khi tham dự phiên họp. Tại phiên họp, Chính phủ thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ, quyền hạn như: chương trình hoạt động hàng năm của Chính phủ, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoặc phát triển kinh tế xã hội ngắn hạn và dài hạn, các công trình quan trọng, dự toán ngân sách nhà nước, các chính sách cụ thể phát triển kinh tế-xã hội, tài chính, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, các đề án trình Quốc hội về cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, quyết dịnh cơ cấu các cơ quan thuộc Chính phủ, báo cáo trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và chủ tịch nước. Nghị quyết của phiên họp Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau, thực hiện theo ý kiến của Thủ tướng đã quyết định. (Điều 35 Luật tổ chức Chính phủ hiện hành). Quy định này thể hiện sự kết hợp chặt chẽ chế độ trách nhiệm cá nhân và tập thể, vừa đề cao vai trò của tập thể Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vao trò của Thủ tướng. Trong hoạt động của Chính phủ nước ta, phiên họp luôn được xác định là một hình thức hoạt động quan trọng. Điều này được cụ thể hóa trong các văn bản quan trọng: Luật tổ chức Hội đồng chính phủ 1960, Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981..v. và hiện nay là Điều 33 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001. 2.2 Hoạt động của Thủ tướng Chính phủ Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Khẳng định vai trò của Thủ tướng cùng với vai trò của phiên họp Chính phủ, là xu hướng đổi mới quan trọng của Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở kế thừa các Hiến pháp trước đó. Nhằm tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ, Luật tổ chức Chính phủ 2001 đã cụ thể hóa Điều 114 Hiến pháp 1992 bằng quy định tại chương III. Với quy định này, cho phép phân định rõ ràng hơn quyền hạn của tập thể Chính phủ với quyền hạn của cá nhân Thủ tướng. Quyền hạn của thủ tướng được quy định khá cụ thể, rõ ràng và có phần mở rộng, nhiều quyền hạn trước đây được giao cho tập thể Hội đồng bộ trưởng nay giao cho cá nhân Thủ tướng. Theo điều 114 Hiến pháp 1992 và Chương III Luật tổ chức Chính phủ, Thủ tướng có các quyền hạn: - Lãnh đạo công tác của Chính phủ, thành viên Chính phủ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp; Quy định chế độ làm việc của Thủ tướng với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chỉ đạo xây dựng các dự án trình Quốc hội và Ủy bản thường vụ Quốc hội, các văn bản quy phạm thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng; Triệu tập, chủ tọa phiên họp Chính phủ; Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, có quan ngang bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức đối với Phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Thành lập hội đồng và ủy ban thường xuyên hoặc lâm thời khi cân thiết; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thứ trưởng và các chức vụ tương đương; phê chuẩn kết quả bầu cử thành viên ủy ban nhân dân cấp tỉnh, miễn nhiệm, điều động, cách chức chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Quyết định các biện pháp để cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lí nhà nước; Đình chỉ văn bản của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan cấp trên; Đề nghị Chủ tịch nước tạm đình chỉ công tác của Phó thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiễm các thành viên khác của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ tướng Chính phủ căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, Thủ tướng ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện văn bản đó. Phó thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt, một Phó thủ tướng được Thủ tướng ủy quyền thay mặt lạnh đạo công tác của Chính phủ. Phó thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Quốc hội về nhiệm vụ được giao. 2.3 Hoạt động của bộ trưởng và các thành viên khác thuộc Chính phủ. Ngoài hoạt động của Thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của Chính phủ nói chung. Theo hiến pháp 1992, bộ là cơ quan có chức năng quản lí nhà nước đối với một ngành hay một lĩnh vực. Bộ không phải là một tổ chức kinh doanh cho nên không phải càng nhiều ngành thì càng nhiều bộ, tổ chưc của bộ không theo quy mô ngành, do đó việc giảm số lượng các bộ là cần thiết. Bộ trưởng và thủ trưởng cở quan ngang bộ là thành viên của Chính phủ, lãnh đạo công tác của bộ và cơ quan ngang bộ, phụ trách một số công tác của Chính phủ, bộ trưởng chịu trách nhiệm trước thủ tướng và trước Quốc hội về hoạt động quản lí nhà nước trong phạm vi ngành, lĩnh vực được phân công. Bộ trưởng làm việc theo chế độ thủ trưởng và Quy chế làm việc của Chính phủ; bảo đảm nguyên tắc tập trung, dân chủ; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của Bộ và các đơn vị trực thuộc theo quy định; ban hành Quy chế làm việc của Bộ và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện Quy chế đó. Để thực hiện tốt chức năng của mình, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ, quyền hạn: trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch và các công trình quan trọng của ngành; chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác được giao; tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học; trình Thủ tướng Chính phủ kí kết, gia nhập, phê duyệt các điều ước quốc tế thuộc ngành và chỉ đạo thực hiện điều ước; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước thuộc ngành theo quy định của Chính phủ; quản lý nhà nước các tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; quản lý và tổ chức thực hiện ngân sách; trình báo cáo theo yêu cầu của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội; tổ chức và chỉ đạo nhằm nâng cao hiêu quả quản lý bộ máy hành chính nhà thuộc ngành và lĩnh vực mình phụ trách. Căn cứ vào văn bản do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư và hướng dẫn kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Những thành tựu đạt được trong hoạt động của Chính phủ trong thời gian qua. Trong thời g
Luận văn liên quan