Đề tài Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường xăng dầu ở Việt Nam

Trong bất kì nền kinh tế nào, xăng dầu cũng chiếm 1 vị trí vô cùng quan trọng. Ở Việt Nam, xăng dầu là một trong ba mặt hàng chính được Nhà nước đặc biệt quan tâm (cùng với than và điện). Dầu mỏ hay dầu thô là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường. Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu Xăng là một loại dung dịch nhẹ chứa Hydrocacbon, dễ bay hơi, dễ bốc cháy, cất từ dầu mỏ. Xăng được sử dụng như một loại nhiên liệu, dùng làm chất đốt cho các loại động cơ xăng. Như vậy có thể nói xăng có ứng dụng rất lớn cho đời sống. Các loại máy móc chạy bằng xăng có rất nhiều: Xe máy, oto, máy bay, động cơ điện.và đều rất cần thiết cho cuộc sống. Như vậy có thể nói, xăng dầu là nguồn nguyên liệu đầu vào của hầu hết các ngành sản xuất, và không thể thiếu trong đời sống. Chỉ một sự biến động nhỏ của xăng dầu cũng ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác trong xã hội thế nên nó luôn là một trong những mặt hàng được Nhà nước và nhân dân sát sao theo dõi.

doc28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2045 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường xăng dầu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/ TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM 1.Vị trí và tầm quan trọng của xăng dầu trong nền kinh tế. Trong bất kì nền kinh tế nào, xăng dầu cũng chiếm 1 vị trí vô cùng quan trọng. Ở Việt Nam, xăng dầu là một trong ba mặt hàng chính được Nhà nước đặc biệt quan tâm (cùng với than và điện). Dầu mỏ hay dầu thô là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu Xăng là một loại dung dịch nhẹ chứa Hydrocacbon, dễ bay hơi, dễ bốc cháy, cất từ dầu mỏ. Xăng được sử dụng như một loại nhiên liệu, dùng làm chất đốt cho các loại động cơ xăng. Như vậy có thể nói xăng có ứng dụng rất lớn cho đời sống. Các loại máy móc chạy bằng xăng có rất nhiều: Xe máy, oto, máy bay, động cơ điện...và đều rất cần thiết cho cuộc sống. Như vậy có thể nói, xăng dầu là nguồn nguyên liệu đầu vào của hầu hết các ngành sản xuất, và không thể thiếu trong đời sống. Chỉ một sự biến động nhỏ của xăng dầu cũng ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác trong xã hội thế nên nó luôn là một trong những mặt hàng được Nhà nước và nhân dân sát sao theo dõi. 2. Các loại sản phẩm xăng dầu trên thị trường Việt Nam Các loại sản phẩm xăng dầu trên thị trường Việt Nam chủ yếu gồm có LPG, xăng 92, xăng 95, dầu hỏa, nhiên liệu phản lực Jet A1, DO 0,25% S; DO 0,05% S, cặn mazut,… Hiện nay, có thêm một số sản phẩm mới được bổ sung là xăng pha cồn bioethanol E5, dầu NLSH biodiesel…  đã được kinh doanh trên thị trường. a) Xăng: Theo số liệu hải quan 2009, tổng lượng xăng RON 95 nhập khẩu với khối lượng 587.630 tấn, lượng nhập khẩu thường rơi vào mùa giữa năm. Các tháng đầu năm và cuối năm, lượng xăng nhập khẩu thấp hơn. Ngoài ra còn có xăng RON 92 phục vụ người tiêu dùng. b) Nhiên liệu phản lực và dầu hỏa: Nhiên liệu phản lực Jet A1được nhập về VN chủ yếu do công ty xăng dầu hàng không Việt Nam chiếm 78% tổng lượng Jet A1 nhập khẩu, bên cạnh đó còn có công ty cổ phần nhiên liệu bay Petrolimex 16%…Lượng nhiên liệu phản lực này được nhập khẩu làm nhiên liệu cho máy bay tại các sân bay chính trong nước là Tân Sơn Nhất và Nội Bài, nên do đó một số lượng lớn nhập khẩu về cảng Nhà Bè (48%), cảng Sài Gòn Khu vực III (14%), tại phía Bắc nhập khẩu về cảng Hải Phòng (35%), ngoài ra còn nhập khẩu về cảng Chân Mây 2% tại khu vực miền Trung (cho sân bay Đà Nẵng), và cảng Bà Rịa Vũng Tàu 1% để tạm nhập tái xuất. c. Dầu Diesel (Dầu DO): Theo quy định của Nhà nước, dầu DO nhập khẩu về Việt Nam chỉ có 2 loại là Diesel 0.05% Lưu huỳnh và DO 0.25% Lưu huỳnh. Tổng lượng nhập khẩu năm 2009 đạt 6,494,736 tấn trong đó DO 0.25% S chiếm 94% và DO 0,05% S chiếm 6%. 3) Thị trường xăng dầu ở Việt Nam a) Vấn đề “ độc quyền” trong thị trường xăng dầu ở Việt Nam Thị trường xăng dầu ở Việt Nam là một thị trường khá nhạy cảm. Chúng ta vẫn phải nhập khẩu gần như 100% xăng dầu để cung ứng cho thị trường trong nước. Cho đến nay, dù đã có nhiều doanh nghiệp tham gia phân phối xăng dầu trên cả nước, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy Petrolimex luôn là doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường trong nước, và vị trí này có lẽ sẽ khó có sự thay đổi nào trong tương lai gần. Hiện nay, Petrolimex đảm nhận gần 60% nhu cầu xăng dầu trong nước thông qua hệ thống kho- cảng hiện đại, trên 1.900 cửa hàng và khoảng 5.500 đại lý trên phạm vi toàn quốc, phát triển mạnh tái xuất và chuyển khẩu xăng dầu sang Lào và Campuchia, đồng thời mở rộng thị trường sang Trung Quốc, Hongkong, Philippines…Các kết quả điều tra cho thấy, trong số 5 doanh nghiệp chiếm thị phần lớn nhất, Petrolimex là doanh nghiệp có sức mạnh thị trường vượt trội so với nhóm 4 doanh nghiệp còn lại (Petec, PV Oil, Saigon Petro và Mipeco)… Có thể thấy rõ vị thế của Petrolimex qua bảng số liệu sau: Tên đơn vị  Lượng nhập khẩu (tấn)   Công Ty CP Dầu khí Mê Kông  52,280   Công ty Thương Mại dầu khí Đồng Tháp  100,171   Công ty TM XNK Thanh Lễ  92,296   Công Ty TNHH Dầu khí Mê Kông  5,597   Công ty xăng dầu Quân đội  92,055   Cty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư  226,343   Cty Thương mại Xăng dầu Đường Biển  12,823   Cty TNHH Một Thành Viên Dầu Khí TP.HCM  11,592   Tổng công ty xăng dầu quân đội  82,624   Tổng công ty xăng dầu việt nam  1,850,570   TCT Dầu Việt Nam  16,735   (Bảng: thống kê các công ty nhập khẩu xăng dầu năm 2009. Nguồn: Số liệu hải quan) Điều này phần nào cho thấy, thị trường xăng dầu ở Việt Nam vẫn có độc quyền nhóm. Điều này trước hết đến từ các chính sách của Chính phủ. Như đã nói ở trên, xăng dầu là một mặt hàng rất thiết yếu và nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế của đất nước, nên chính phủ cũng tạo cho nó một cơ chế có thể tồn tại dưới dạng độc quyền Nhà nước. Trong trương hợp này, chính phủ đã nhượng quyền khai thác thị trường xăng dầu để dễ dàng nắm giữ, quản lý. Theo văn bản thông báo về hạn mức nhập khẩu xăng dầu tối thiểu năm 2011 mà Bộ Công Thương đưa ra thì năm 2011, các doanh nghiệp trong nước sẽ nhập khẩu khoảng 11 triệu m3 xăng dầu (trong đó: xăng 3,4 triệu m3, dầu diesel 5,8 triệu m3, dầu ma dút 1,54 triệu m3, nguyên liệu bay 225.000 m3, dầu hỏa 30.000 m3)và Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam sẽ được giao nhập khẩu hơn 50% tổng hạn mức (6,35 triệu m3), số còn lại giao cho 12 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu khác. Bên cạnh đó, còn có một sự rào cản tự nhiên tạo nên sự độc quyền trong lĩnh vực xăng dầu ở Việt nam. Mặc dù đã có sự mở cửa, nhưng không phải doanh nghiệp cứ muốn vào là được vì còn phải đầu tư rất lớn vào hệ thống xe bồn, trạm bán…Các doanh nghiệp xăng dầu mới chỉ cạnh tranh ở mảng cuối cùng của thị phần. b) Sự ra đời của công ty lọc dầu Dung Quất và ý nghĩa của nó Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thuộc Khu kinh tế Dung Quất, là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam xây dựng thuộc địa phận xã Bình Thuận và Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một trong những dự án kinh tế lớn, trọng điểm quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 21. Nhà máy chính gồm 14 phân xưởng công nghệ chế biến dầu, 10 phân xưởng năng lượng phụ trợ, khu bể chứa dầu thô, bể chứa sản phẩm, hệ thống ống dẫn dầu thô và sản phẩm. Phụ trợ cho hoạt động nhà máy là các hạng mục cảng biển gồm hệ thống tiếp nhận dầu thô ngoài biển cho tàu trọng tải đến 110.000 DWT, cảng xuất sản phẩm cho tàu trọng tải đến 30.000 DWT, đê chắn sóng... các sản phẩm của nhà máy gồm khí hóa lỏng LPG, xăng A92/95, dầu hỏa, nhiên liệu phản lực, diesel ôtô, dầu nhiên liệu FO, lưu huỳnh và hạt nhựa polypropylen (PP). Sau hơn 2 năm kể từ ngày đón dòng sản phẩm đầu tiên (22-2-2009), Nhà máy lọc dầu Dung Quất cho ra những dòng sản phẩm hữu ích và trở thành yếu tố chính trong việc bình ổn thị trường xăng dầu trong nước. Điều đặc biệt là nhà máy đã đáp ứng được hơn 30% nhu cầu xăng trong cả nước. Đây là một vai trò rất quan trọng đối với thị trường xăng dầu trong nước vì nhà máy sẽ giúp hạn chế nhập khẩu, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài, giảm chi ngoại tệ và đặc biệt là sẽ giảm giá xăng dầu. Chắc chắn trong tương lai, khi nhà máy được đưa vào sản xuất một cách chính thức, sẽ đáp ứng nhiểu hơn nữa nhu cầu xăng dầu của quốc gia. c) Cơ chế quản lý của Nhà nước Xăng dầu là mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt và giá của nó ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế xã hội. Những năm qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp quản lý giá xăng dầu. Trước năm 2008, Nhà nước quản lý giá chủ yếu theo quyết định 187, bao gồm các nội dung đáng chú ý sau: - Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu). - Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu. - Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước và doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp vẫn không được tự xác định giá mà vẫn bị Nhà nước can thiệp trực tiếp. Một điểm nhấn đáng chú ý trong cơ chế quản lý của Nhà nước đó là việc ban hành Nghị định số 55/2007/NĐ-CP về việc kinh doanh xăng dầu (Nghị định 55), theo đó giá xăng dầu sẽ được áp dụng theo cơ chế thị trường, và quyết định chấm dứt cơ chế bù lỗ kể từ ngày 16/9/2008. Điều này những tưởng sẽ tạo ra một bước ngoặt lớn theo đó doanh nghiệp sẽ có thực quyền trong xác định giá bán, tuy nhiên hoạt động kinh doanh xăng dầu vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể so với giai đoạn trước đó và ngày càng lộ rõ nhiều điểm bất cập. Trong suốt thời gian hiệu lực của hai văn bản này, cái gọi là cơ chế thị trường đối với giá xăng dầu vẫn chưa áp dụng được trên thực tế, bởi lẽ mỗi lần điều chỉnh giá, doanh nghiệp đều phải trình và chờ quyết định chính thức của cơ quan quản lý. Kết quả là giá xăng dầu vẫn bất ổn, Nhà nước vẫn tiếp tục bù lỗ và người tiêu dùng vẫn tiếp tục phản ứng mỗi khi giá xăng dầu biến động do chưa hiểu rõ được nguồn gốc. Thực tế cho thấy, hệ thống phân phối bán lẻ xăng dầu của nước ta vẫn là hệ thống cửa hàng một giá, các doanh nghiệp không có sự cạnh tranh về giá trên thị trường xăng dầu. Khi giá xăng dầu thế giới tăng, để đảm bảo lợi ích của mình, các doanh nghiệp đầu mối sẽ làm thủ tục để xin tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Ngược lại khi giá thế giới giảm, do một số lý do khác nhau, các doanh nghiệp xăng dầu thường chần chừ giảm giá bán. Điều này thực sự gây thiệt hại lớn đối với người tiêu dùng. Tiếp theo đó, nhằm thực hiện đúng tiêu chí áp dụng cơ chế giá thị trường và chấn chỉnh lại hoạt động kinh doanh xăng dầu, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 36/2009/TT-BCT ngày 14/12/2009 về ban hành quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu (Thông tư 36) phối hợp với Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/10/2009 về kinh doanh xăng dầu (Nghị định 84), cùng có hiệu lực vào ngày 15/12/2009, bãi bỏ các quy định của Nghị định 55. Hai văn bản này quy định khá chặt chẽ về điều kiện kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; sản xuất; kinh doanh phân phối xăng dầu; kinh doanh dịch vụ xăng dầu… và không mấy khác biệt so với Nghị định 55. Về mặt hệ thống kinh doanh, thương nhân đầu mối sẽ trực tiếp thiết lập hệ thống đại lý bán lẻ hoặc thiết lập thông qua tổng đại lý. Đồng thời, tổng đại lý chỉ được bán xăng dầu dưới hình thức đại lý cho các thương nhân là đại lý thuộc hệ thống phân phối của mình và chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một thương nhân đầu mối. Trong trường hợp tổng đại lý muốn ký hợp đồng làm tổng đại lý cho thương nhân đầu mối khác thì phải thanh lý hợp đồng đại lý với thương nhân đầu mối hiện tại. Bên cạnh đó, yếu tố phi thị trường trong việc chờ cơ quan nhà nước quyết định giá bán xăng dầu mà doanh nghiệp trình lên đã được loại bỏ khi thương nhân đầu mối có toàn quyền quyết định giá bán cho đại lý và giá bán lẻ áp dụng tại cửa hàng bán lẻ thuộc hệ thống phân phối của mình. II. NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 – 2010 2.1. Diễn biến chính của thị trường xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010 tuy rất ngắn nhưng đã bộc lộ nhiều nhất bất cập của cơ chế điều hành giá xăng dầu. Cũng trong giai đoạn này, thị trường xăng dầu Việt Nam có diễn biến khá phức tạp và gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người tiêu dùng. Cụ thể, thị trường xăng dầu Việt Nam trong năm tài chính 2008 đã chứng kiến tới 12 lần thay đổi giá xăng dầu. Đáng chú ý là ngày 21/7/2008, giá 1 lít xăng A92 đã chạm mốc kỉ lục 19.000 đồng, sau đó giá xăng mới dần hạ nhiệt và giảm mạnh ở những tháng cuối năm. Giải thích về quyết định tăng giá xăng lên hơn 31% ( so với mức giá 14.500 đồng/ lít xăng ở thời điểm trước đó) , Bộ Tài chính cho rằng điều này sẽ hỗ trợ cho các nhà nhập khẩu dầu quốc doanh hiện đang phải đương đầu với giá dầu cao trên thế giới ( giá dầu thô ở thời điểm nay khoảng 130 đôla/ thùng ). Đồng thời góp phần chống gian lận thương mại và giảm bớt một phần bù lỗ cho ngân sách nhà nước, giảm bao cấp một phần. Ngày  Diesel (đ/lít)  Mogas 92 (đồng/lít)   23/02/2008  14000  14500   21/7/2008     19.000   14/8/2008     18.000   27/08/2008  15450  17000   18/09/2008  15450  16500   17/10/2008  14950  16000   18/10/2008  14450  15500   31/10/2008  13950  15000   8/11/2008  12950  14000   15/11/2008  12950  13000   02/12/2008  11950  12000   11/12/2008  10950  11000   Tuy nhiên, càng về cuối năm, giá xăng dầu lại có nhiều diễn biến tích cực hơn cho người tiêu dùng. Từ ngày 02/12/2008, giá bán lẻ xăng A92 trên thị trường còn 12.000 đồng/lít. Tương tự, xăng A95 giảm xuống còn 12.500 đồng/lít. Các loại dầu diezel cũng có mức giảm tương tự, dầu hỏa giảm 500 đồng/lít. Với lần điều chỉnh này, giá xăng bán lẻ đã tương đương với thời điểm cách đây hơn hai năm, ngày 9/8/2006, khi giá xăng A92 được điều chỉnh lên mức 12.000 đồng/lít. Lần giảm giá xăng này diễn ra trong bối cảnh giá dầu thô thế giới suốt một thời gian khá dài dao động quanh mức 50 USD/thùng. Và nếu tính từ 21/7/2008 - thời điểm tăng giá xăng gần nhất - đây đã là lần giá xăng trong nước giảm lần thứ 9 liên tiếp. Năm 2008 còn ghi nhận một đợt giảm giá kỉ lục cuối cùng nữa, khi giá xăng A92 được các doanh nghiệp đầu mối giảm tiếp 1.000 đồng, xuống còn 11.000 đồng/lít kể từ ngày 11/12/2008. Lần giảm giá xăng này diễn ra trong bối cảnh giá dầu thô thế giới hạ xuống mức rất thấp còn 40 USD/thùng. Thậm chí, tại Singapore, nhà cung cấp xăng dầu lớn nhất cho thị trường Việt nam, giá xăng R92 chỉ còn 35,21 USD/thùng, dầu diezen 0,25S còn 59,51 USD/thùng và dầu mazút còn 224,52 USD/tấn.  Năm 2009, thị trường xăng dầu thế giới tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp và khó dự báo. Thế giới tiếp tục phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức từ hậu quả nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Đối lập với bối cảnh thị trường năm 2008, giá xăng dầu năm 2009 có xu hướng tăng là chủ đạo. Mặc dù biên độ điều chỉnh ở mỗi thời điểm quyết định tăng giá xăng dầu đều ở mức vừa phải, dao động từ 500 đồng đến 1000 đồng/ lít, nhưng người tiêu dùng vẫn có thể cảm nhận được sự chênh lệch quá rõ ràng của giá nhiên liệu ở thời điểm đầu và cuối năm. Điều này là hiển nhiên bởi sự chênh lệch này lên tới hơn 45%. Ngày  Diesel (đ/lít)   Mogas 92 (đồng/lít)     09/02/2009  10450  11000   19/03/2009  9.950  11000   02/04/2009  9.950  11.500   11/04/2009  9.950  12.000   08/05/2009  10.450  12.500   10/06/2009  11.450  13.500   01/07/2009  12.050  14.200   09/08/2009  12.050  14.700   30/08/2009  13.050  15.700   01/10/2009  12.750  15.200    24/10/2009  13.250  15.500   20/11/2009  14.250  16.300   15/12/2009  14.550  15.950   Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể thấy rõ khoàng thời gian từ tháng 4 đến tháng 11/2009, sau 7 tháng trôi qua, giá xăng dầu có tới 9 lần điều chỉnh, trong đó chỉ có 1 lần giảm giá còn lại có tới 8 lần tăng giá. Có thể nói: Mặt hàng xăng dầu trong năm 2009 đã phải chịu quá nhiều biến động về giá cả. Ngày 11/4/2009 được đánh dấu là ngày bắt đầu cho "chuỗi sự kiện" tăng giá xăng bán lẻ trong nước được thực hiện... liên tục. Biểu đồ giá xăng, dầu điều chỉnh năm 2009  Bắt đầu từ ngày 11/4, giá các loại xăng và dầu hoả tăng đồng loạt 500 đồng/lít; tương ứng với mức 11.500 đồng/lít xăng tăng lên thành 12.000 đồng/lít đối với xăng A92 và từ 11.000 đồng/lít tăng lên thành 11.500 đồng/lít đối với dầu hoả. Chưa đầy một tháng sau, ngày 8/5/2009, các DN tiếp tục tăng giá đối với tất cả các mặt hàng xăng dầu với mức tăng tương ứng từ 500 đồng - 550 đồng/lít. Theo đó, xăng A92 có giá bán mới là 12.500 đồng/lít. Dầu hoả là 12.000 đồng/lít; diesel 0,05S có giá mới là 10.500 đồng/lít và madút 3S là 9.100 đồng/kg. Cũng chỉ 1 tháng sau đó, ngày 10/6 giá các mặt hàng xăng dầu được đồng loạt tăng 1.000 đồng/lít (kg). Mức tăng này đẩy giá bán xăng A92 lên 13.500 đồng/lít; dầu hoả là 13.000 đồng/lít; diesel là 11.500 đồng/lít, và madút là 10.100 đồng/kg. 20 ngày sau tức là ngày 1.7, giá mặt hàng xăng lại tăng thêm 700 đồng/lít, diesel tăng 600 đồng/lít, dầu hoả tăng 650 đồng/lít và madut tăng 500 đồng/lít. Đến ngày 9.8, mặt hàng xăng tiếp tục tăng thêm 500 đồng/lít; madut tăng thêm 1.000 đồng/lít và chỉ có dầu hoả giảm 500 đồng/lít. Cũng chỉ 20 ngày sau, ngày 30/8, Liên Bộ Tài chính - Công thương một lần nữa cho phép DN tăng giá bán lẻ xăng và diesel với mức tăng 1.000 đồng/lít; dầu hoả tăng 850 đồng/lít và madút tăng 300 đồng/kg. Lúc này, xăng A92 đã có giá 15.700 đồng/lít. Lần giảm giá duy nhất được các DN thực hiện từ ngày 1/10. Tuy nhiên, mức giảm đối với xăng và dầu hoả chỉ là 500 đồng/lít; diesel giảm 300 đồng/lít. Sau lần này, ngày 24/10 và ngày 20/11 vừa qua, mặt hàng xăng đã tăng 2 lần. Theo đó, xăng A92 tăng 1.100 đồng/lít; diesel tăng thêm 1.500 đồng/lít; dầu hoả tăng 1.700 đồng/lít và madut tăng 800 đồng/lít. Như vậy chỉ từ tháng 4/2009 đến nay, sau 7 tháng thì giá xăng A92 đã tăng từ 11.500 đồng lên thành 16.300 đồng/lít. Các mặt hàng diesel, dầu hoả và madut cũng tăng cao hơn 4.000 đồng/lít. Điều đáng nói là trong khoản tiền tăng mà người tiêu dùng phải gánh chịu thì thực chất lại không phải là chi phí thực tế vào giá; mà lại bao gồm cả các khoản tiền "chia sẻ" gánh nặng đối với Nhà nước và doanh nghiệp. Ngoài việc “bù lỗ” cho các doanh nghiệp, việc tăng giá liên tiếp trong năm 2009 còn phản ánh sức ép của thị trường xăng dầu thế giới đã tăng trở lại. Những tác động khiến giá xăng dầu leo thang năm 2009: Khủng hoảng kinh tế gây ra sự giảm giá của đồng USD và do đó ảnh hưởng lớn tới giá dầu của thế giới. Sự phục hồi dần dần của đồng đôla Mỹ vào tháng 10/2009 đã giúp đẩy giá dầu lên cao. Đồng đôla lấy lại vị thế của nó trên thị trường khiến cho tình hình đảm bảo ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu cũng gặp nhiều khó khăn, với chênh lệch khá cao giữa tỷ giá thị trường liên ngân hàng và tỷ giá giao dịch thực tế đã ảnh hưởng đến khả năng huy động ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, không đủ nguồn cung Dự báo thời tiết tại Mỹ giá lạnh bất thường do vậy khiến nhu cầu sử dụng các loại nhiên liệu này tăng vọt (khoảng 6,7%). Giá dầu thô được giao dịch ở mức 78,47 USD/thùng trên sàn hàng hoá New York.  Mặc dù nhu cầu của người dân tăng cao nhưng dự báo OPEC không thay đổi sản lượng. Số liệu của bộ Năng lượng Mỹ cho biết, dự trữ dầu chưng cất, bao gồm dầu sưởi và dầu diesel của nước này giảm 1,8% xuống 161,3 triệu thùng trong cuối tháng 12 và dự trữ dầu thô cũng giảm xuống còn 327,5 triệu thùng. Trước và trong năm 2009, cơ chế bù lỗ cho giá xăng dầu mà Nhà nước ta áp dụng đã bộc lộ sự bất công bằng và rất phức tạp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống và thói quen tiêu dùng của nhân dân. Do đó, một yêu cầu đặt ra là thị trường xăng dầu cần được vận hành theo cơ chế thị trường. Vì vậy, ngày 15/10/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2009/NĐ-CP. Với Nghị định này, việc kinh doanh xăng, dầu được vận hành theo cơ chế mới, doanh nghiệp được quyền quyết định giá bán lẻ khi giá xăng, dầu thành phẩm thị trường thế giới có biến động, là cơ sở để các thương nhân đầu mối vận hành giá bán xăng dầu theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Đây là bước chuyển mình làm thay đổi về chất của hoạt động quản lý kinh doanh xăng dầu và năm 2010, được xem là một cơ hội đối với ngành Xăng dầu vì đây là năm đầu tiên Nghị định 84 thực sự được “đi vào cuộc sống”. Ngày  Diesel (đ/lít)  Mogas 92 (đồng/lít)   14/01/2010  14.850  16.400   21/02
Luận văn liên quan