Thế giới của chúng ta tồn tại và phát triển dựa trên vô số những mối quan hệ vô cơ và hữu cơ phức tạp.Trong đó, hai thành phần có thể nói là trọng yếu nhất để tạo nên sự tồn tại và phát triển ấy là: Tự nhiên và Xã hội . Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là một mối quan hệ biện chứng, cơ bản - cơ bản đến mức nhiều khi người ta không chú ý hoặc nhận ra nó.Tuy nhiên, chính đây lại là nền tảng, cơ sở cho sự hiện tồn của thế giới mà chúng ta đang sống, bởi vì thế giới không chỉ cần đến tự nhiên để cung cấp những điều kiện sống tất yếu, mà để tiến lên các trình độ cao hơn, nó còn cần đến xã hội cùng với những thành phần và quy luật của xã hội.Cho nên, về mặt lý luận, tìm hiểu về sự tác động qua lại giữa tự nhiên với xã hội là tìm hiểu về mối quan hệ quan trọng nhất, căn bản nhất trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới.
Khi mới xuất hiện, con người được tạo hóa ban cho những điều kiện nguyên sơ lí tưởng để tiến hành một cuộc “chinh phục” và “khám phá” - đối với tự nhiên và ngay chính bản thân họ. Từ đây, con người đã trải qua biết bao thử thách cũng như thành công. Nhưng, cùng với những thành tựu kì diệu đã đạt được, họ cũng đã làm biến đổi bộ mặt của tự nhiên một cách ghê gớm, mà tính tiêu cực tỏ ra lấn át tính tích cực. Đặc biệt, trong vài thập kỉ trở lại đây, người ta ngày càng thấy rõ mối đe dọa của hiểm họa sinh thái, khi mà song song với sự phát triển không ngừng của công nghiệp, môi trường cũng ngày một bị phá huỷ nghiêm trọng.Với một nước đang phát triển như Việt Nam, đây lại càng là một vấn đề lớn. Trong quá trình nỗ lực hoà nhịp cùng sự tiến bộ của thế giới, chúng ta rất dễ mắc những sai lầm chủ quan, mà một sai lầm sẽ để lại hậu quả lâu dài và khó lường là chỉ biết khai thác mà không biết bảo tồn môi trường sinh thái.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm không chỉ của riêng ai. Là một sinh viên - thế hệ trẻ của đất nước, ý thức được việc này là vô cùng quan trọng: nắm bắt được tình trạng môi trường để chủ động tham gia vào các hoạt động, hành động bảo tồn, bảo vệ. Hơn nữa lại là sinh viên của ngành kinh tế, việc tìm hiểu về môi trường và việc nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường lại càng thiết yếu, vì các hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất chính là một trong những bộ phận làm tổn hại nhiều nhất đến tự nhiên và môi trường.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2655 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
“Tự nhiên” và “ Xã hội”.Quan hệ giữa Xã hội với Tự nhiên 3
1.1. Tự nhiên và xã hội 3
1.2. Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên 4
Vai trò của con người trong mối quan hệ giữa Xã hội với tự nhiên 4
Vai trò của con người trong mối quan hệ Xã hội -Tự nhiên 4
Mối quan hệ gữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội 6
Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào nhận thức và vận dụng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội trong hoạt động thực tiễn 6
Vấn đề môi trường 8
4.1. Môi trường 8
4.2. Vấn đề môi trường 9
4.3. Nguyên nhân của sự ô nhiễm môi trường 9
Vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay 9
5.1. Thực trạng 9
5.2. Chính sách và hoạt động 11
5.3. Hạn chế 13
5.4. Phương hướng 14
Lời nói đầu
Thế giới của chúng ta tồn tại và phát triển dựa trên vô số những mối quan hệ vô cơ và hữu cơ phức tạp.Trong đó, hai thành phần có thể nói là trọng yếu nhất để tạo nên sự tồn tại và phát triển ấy là: Tự nhiên và Xã hội . Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là một mối quan hệ biện chứng, cơ bản - cơ bản đến mức nhiều khi người ta không chú ý hoặc nhận ra nó.Tuy nhiên, chính đây lại là nền tảng, cơ sở cho sự hiện tồn của thế giới mà chúng ta đang sống, bởi vì thế giới không chỉ cần đến tự nhiên để cung cấp những điều kiện sống tất yếu, mà để tiến lên các trình độ cao hơn, nó còn cần đến xã hội cùng với những thành phần và quy luật của xã hội.Cho nên, về mặt lý luận, tìm hiểu về sự tác động qua lại giữa tự nhiên với xã hội là tìm hiểu về mối quan hệ quan trọng nhất, căn bản nhất trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới.
Khi mới xuất hiện, con người được tạo hóa ban cho những điều kiện nguyên sơ lí tưởng để tiến hành một cuộc “chinh phục” và “khám phá” - đối với tự nhiên và ngay chính bản thân họ. Từ đây, con người đã trải qua biết bao thử thách cũng như thành công. Nhưng, cùng với những thành tựu kì diệu đã đạt được, họ cũng đã làm biến đổi bộ mặt của tự nhiên một cách ghê gớm, mà tính tiêu cực tỏ ra lấn át tính tích cực. Đặc biệt, trong vài thập kỉ trở lại đây, người ta ngày càng thấy rõ mối đe dọa của hiểm họa sinh thái, khi mà song song với sự phát triển không ngừng của công nghiệp, môi trường cũng ngày một bị phá huỷ nghiêm trọng.Với một nước đang phát triển như Việt Nam, đây lại càng là một vấn đề lớn. Trong quá trình nỗ lực hoà nhịp cùng sự tiến bộ của thế giới, chúng ta rất dễ mắc những sai lầm chủ quan, mà một sai lầm sẽ để lại hậu quả lâu dài và khó lường là chỉ biết khai thác mà không biết bảo tồn môi trường sinh thái.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm không chỉ của riêng ai. Là một sinh viên - thế hệ trẻ của đất nước, ý thức được việc này là vô cùng quan trọng: nắm bắt được tình trạng môi trường để chủ động tham gia vào các hoạt động, hành động bảo tồn, bảo vệ. Hơn nữa lại là sinh viên của ngành kinh tế, việc tìm hiểu về môi trường và việc nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường lại càng thiết yếu, vì các hoạt động kinh tế, đặc biệt là hoạt động sản xuất chính là một trong những bộ phận làm tổn hại nhiều nhất đến tự nhiên và môi trường.
Vì vậy, trong tài liệu này, tôi xin trình bày những điểm cơ bản về: Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay.
Nội dung
1 . “Tự nhiên” và “Xã hội” .Quan hệ giữa Xã hội với Tự nhiên:
1.1. “Tự nhiên ” và “Xã hội ” :
Tự nhiên, theo nghĩa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Nó là một trong những yếu tố cơ bản và cần thiết nhất cho sự sống, là điều kiện thường xuyên và tất yếu trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội.
Về điều kiện sống, Tự nhiên cho con người nơi cư trú, cung cấp những thứ cần thiết nhất cho sự sống của họ như nước, ánh sáng, không khí, thức ăn, v.v.. Nhưng, đó mới chỉ là những gì tự nhiên ban chung cho mọi sinh vật trên trái đất này. Riêng đối với con người - sinh vật tiến hoá nhất của thế giới với trình độ lao động, tự nhiên còn là một cái kho khổng lồ chứa đựng biết bao tài nguyên quý giá. Đó là những nguyên vật liệu, những nhiên liệu giúp con người tiến hành và duy trì các hoạt động sản xuất của mình, mà nếu thiếu chúng, con người đã không thể có điểm xuất phát, không biết sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào: “Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết, nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài . Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta được thực hiện, trong đó lao động của anh ta tác động, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm”.
Xã hội, là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên, là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Cho nên có thể nói: xã hội “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”. Như vậy, xã hội được hình thành thông qua những hoạt động có ý thức của con người chứ không tự phát như tự nhiên, và qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, xã hội tự có những quy luật riêng của nó mà bản thân con người cũng phải tuân theo.Đồng thời với sự tiến hoá của tự nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình, thể hiện bằng sự vận động , biến đổi và phát triển không ngừng trong cơ cấu của xã hội - ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội đặc thù. Nền tảng chung của các cơ cấu xã hội cụ thể này là những mối quan hệ sản xuất vật chất, những mối quan hệ giữa người với người.
Như vậy là ngay từ xuất phát điểm, con người đã được tạo hóa ban cho nơi trú ngụ, thức ăn và vật liệu -chỉ có điều tất cả mới ở dạng thô sơ.Việc họ phải làm trong suốt quá trình phát triển của mình cũng giống như là xây dựng và trang hoàng cho nơi ở ấy được đẹp đẽ và ấm cúng hơn, chế biến cho thức ăn được ngon hơn từ những vật liệu có sẵn.Và những hoạt động sản xuất cũng như những mối quan hệ xã hội chính là phương tiện, cách thức giúp cho con người thực hiện được điều đó.
1.2. Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên:
Tự nhiên và xã hội có mối quan hệ khăng khít.Trong sự tác động qua lại giữa chúng, yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và sự phát triển của xã hội, con yếu tố xã hội ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc biến đổi và phát triển của tự nhiên.
Tự nhiên là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và tiến lên của xã hội, của con người.Vai trò này của tự nhiên không có gì có thể thay thế được và cũng không bao giờ mất đi, cho dù xã hội có phát triển đến trình độ nào đi chăng nữa. Bởi lẽ, nếu coi xã hội như một cơ thể sống, thì tự nhiên là nguồn cung cấp không khí, nước và thức ăn; còn nếu coi nó như một cỗ máy sản xuất, thì tự nhiên lại là bộ phận đưa nguyên, nhiên liệu vào -Không có không khí, nước và thức ăn thì cơ thể sẽ còi cọc, ốm yếu rồi tàn lụi; không có nguyên vật liệu thì cái máy cũng chỉ là thứ bỏ đi mà thôi. Ngày nay, với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, con người đã chế tạo được ra những vật liệu mới vốn không có sẵn trong tự nhiên, nhưng, suy đến cùng, thì những thành phần tạo nên chúng cũng lại đều xuất phát từ tự nhiên. Xã hội dù có phát triển đến trình độ nào thì cũng vẫn không thể thoát ra ngoài cái vòng tự nhiên, vì mọi hoạt động xã hội đều diễn ra trong tự nhiên, lấy tài liệu từ tự nhiên và có đạt kết quả hay không cũng lại phụ thuộc vào tự nhiên ấy. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc cản trở sản xuất xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động, do đó thúc đẩy hoặc làm chậm nhịp độ phát triển xã hội.
Xã hội loài người gắn bó với tự nhiên nhờ có các dòng vật chất, năng lượng và thông tin, nhờ sự kết hợp giữa lao động với thiên nhiên. Nếu tự nhiên là nguồn cung cấp các tư liệu sinh hoạt và sản xuất cho xã hội, thì xã hội là bộ phận tiêu thụ, biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả những thành phần khác của chu trình sinh học. Xã hội có thể sử dụng tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển: từ động, thực vật đến vi sinh vật: từ đất, đá, sỏi, cát đến các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt; từ những nguồn vật chất có hạn và tái tạo được đến những nguồn vật chất như ánh sáng, không khí, nước v.v..Thông qua lao động của con người trong xã hội, tự nhiên được biến đổi và bị biến đổi. Đó chính là sự tác động trở lại của xã hội đối với tự nhiên, và sẽ quyết định hướng phát triển tiếp theo của tự nhiên.
Nhưng, dù có vai trò khác nhau, thì cả hai yếu tố tự nhiên và xã hội đều cùng nhau hợp thành hệ thống Tự nhiên - xã hội . Sự thống nhất của hệ thống này được xây dựng trên cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được bảo đảm bởi cơ chế hoạt động của chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Hoạt động của chu trình này tuân theo những quy luật và những nguyên tắc tổ chức chung (nguyên tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ) mà cả hai yếu tố cùng phải nhất loạt tuân theo thì mới đảm bảo cho một sự phát triển bền vững được.
2. Vai trò của con người trong mối quan hệ Xã hội -Tự nhiên:
2.1. Vai trò của con người trong mối quan hệ Xã hội -Tự nhiên:
Xét về mặt tiến hoá, con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là sản phẩm - nhưng là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hoá của thế giới vật chất. Con người vừa là hiện thân, vừa là hạt nhân của sự thống nhất biện chứng giữa xã hội với tự nhiên. Sự thống nhất đó biểu hiện trong bản tính của họ: Con người sống trong môi trường tự nhiên như một sinh vật.Để tồn tại và phát triển, họ cũng có đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như bất kỳ một động vật nào khác và đồng thời cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy luật sinh học Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của họ. C.Mác khẳng định: “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, “con người sống bằng giới tự nhiên”. Song, con người chỉ có thể trở thành Con người đích thực khi được sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại gữa người với người.
Tuy nhiên, dù có lệ thuộc rất nhiều vào tự nhiên và xã hội, thì chính con người mới là thành phần quyết định xu hướng phát triển tiếp theo của hai yếu tố đó, bởi vì: trước hết là phải có con người thì mới có xã hội và mới có mối quan hệ tự nhiên -xã hội, kế đến là phải có lao động của con người thì phương thức sản xuất của xã hội mới phát triển lên trình độ cao hơn, và từ đó lại làm biến đổi tự nhiên theo hình thức mới. Nếu con người không nỗ lực lao động, thì họ cứ mãi dậm chân tại một mức độ phát triển, tức là xã hội cũng sẽ mãi dừng lại ở một điểm; Nếu con người tiến hành hoạt động sống và sản xuất đúng cách thì cả tự nhiên và xã hội đều sẽ biến đổi tốt, ngược lại, nếu nhận thức và hành động của họ đều sai lầm thì hai yếu tố kia cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Õ
Thông qua sơ đồ sau, có thể thấy được mối quan hệ tự nhiên - xã hội - con người trong đó con người giữ vai trò trung gian:
Tự nhiên Con người Xã hội
Có thể giải thích là: Ban đầu, tự nhiên sinh ra con người, rồi con người tạo ra xã hội; Xã hội được biến đổi sẽ làm con người tiếp tục tăng nhu cầu của mình nên lại có hướng khai thác tự nhiên; Thực trạng tự nhiên khi đó như thế nào lại tác động đến con người, làm họ có định hướng biến đổi xã hội tiếp theo - Cứ như vậy. Nhưng, cũng có lúc tự nhiên tác động trực tiếp đến xã hội, như: bão lụt, hạn hán...Khi đó, xã hội cần phải nhờ đến con người mà khắc phục; Ngược lại, có lúc những hoạt động xã hội trực tiếp ảnh hưởng đến tự nhiên như thủng tầng ôzôn, tăng nhiệt độ... thì lúc đó con người cũng lại là lực lượng khắc phục - tức là dù tự nhiên và xã hội có sự tác động qua lại, nhưng con người - vì sự tồn tại của họ - luôn tham gia giải quyết kết quả của những sự tác động đó.
2.2. Mối quan hệ gữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội:
Sự gắn bó, sự quy định lẫn nhau giữa lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.Mối quan hệ đó được thực hiện thông qua lực lượng sản xuất, hay lực lượng sản xuất là biểu hiện sự chinh phục tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất luôn vận động và biến đổi, và trong bản thân nó đã từng diễn ra những cuộc cách mạng to lớn, quyết định các bước chuyển vĩ đại về chất cả xã hội loài người. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều được đặc trưng bởi một trình độ phát triển của công cụ sản xuất nhất định; chẳng hạn, nền văn minh nông nghiệp được đặc trưng bởi công cụ sản xuất bằng kim loại thủ công, nền văn minh công nghiệp - công cụ sản xuất bằng máy móc -cơ khí, nền văn minh trí tệ sẽ là công nghệ trí tuệ. Điều đó nói lên rằng, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất là nhân tố năng động và cốt lõi quyết định trình độ phát triển của xã hội, nó quy định nội dung sự phát triển của phương thức sản xuất. Công cụ sản xuất biến đổi và phát triển, tức là sức chinh phục tự nhiên của con người tăng lên, điều đó làm thay đổi tính chất của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Tuy nhiên, xã hội đối xử với tự nhiên ra sao là tuỳ thuộc vào bản chất chế độ xã hội, vào quan hệ sản xuất thống trị. Con người có thể có những cách thức tác động vào tự nhiên khác nhau, ứng với mỗi chế độ xã hội khác nhau.Ví dụ như, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, do bản chất của nó là coi lợi nhuận là trên hết, nên con người không chỉ coi tự nhiên như môi trường sống, như kho tài nguyên, mà chủ yếu còn như đối tượng để khai thác, vơ vét. Và việc làm ấy của họ đã đem lại những hậu quả không lường trước được: khủng hoảng sinh thái đang đe dọa nhân loại. Để tồn tại và tiếp tục phát triển, con người không còn con đường nào khác là phải quay về sống hài hoà với thiên nhiên, bằng cách thay đổi phương thức khai thác và sử dụng thiên nhiên, song quan trọng hơn cả là phải xoa bỏ chế độ xã hội không hợp lý - cũng tức là phải nâng cao trình độ phát triển của xã hội.
3. Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên phụ thuộc vào nhận thức và vận dụng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội trong hoạt động thực tiễn:
Con người giữ vai trò quan trọng, thậm chí quyết định đối với mối quan hệ xã hội - tự nhiên, cho nên việc duy trì tốt mối quan hệ ấy cũng phụ thuộc trước hết vào con người
Bằng hoạt động thực tiễn, con người và xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng đối với sự biến đổi và sự phát triển của tự nhiên. Những quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên mà con người cần tuân thủ trong hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động sản xuất xã hội, là quy luật bảo đảm cơ chế hoạt động bình thường của chu trình sinh học, hay chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin của tự nhiên, bởi vì sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên được thực hiện thông qua cơ chế hoạt động của chu trình này. Thế nhưng, trong quá trình phát triển của mình, do không tuân theo những quy luật ấy, hoạt động của con người đã gây nhiều ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng đến thế giới xung quanh. Cuộc khủng hoảng sinh thái đang diễn ra ở nhiều nơi trên hành tinh chúng ta là hậu quả của những hành động thiếu suy nghĩ và “bóc lột” quá đáng của con người đối với tự nhiên, đặc biệt là dưới chủ nghĩa tư bản . Những hành động đó không chỉ huỷ hoại các sinh vật, mà còn làm tổn hại đến khả năng tự điều chỉnh của các hệ thống tự nhiên. Bởi vậy, tự nhiên đang trả thù chúng ta, đang chống lại chính con người.
Không thể để cho tình trạng này ngày càng kéo dài - con người nhất định phải tìm cách sống hoà hợp với tự nhiên. Và để thực hiện được điều đó, thì quan điểm có thể coi là kim chỉ nam là: “chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta [. . .] nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác. ”. Có nghĩa là, để điều khiển được tự nhiên, trước hết, con người cần phải nhận thức được rằng mình là một bộ phận không thể tách rời của giới ấy, từ đó nắm vững được những quy luật của tự nhiên để có thể tránh đi ngược lại và gây hậu quả xấu đến nó.
Bên cạnh việc nắm được quy luật tự nhiên, con người còn cần nắm được quy luật xã hội, vì tuy quy luật xã hội được hình thành thông qua hoạt động của họ, nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, hay một lực lượng xã hội nào. Sau một thời gian hình thành và phát triển, xã hội tự nó có những quy luật cho phù hợp với xu hướng chung và thiết yếu của lịch sử xã hội và số đông người. Cho nên, con người buộc phải tuân theo những quy luật ấy, bằng không, chính họ sẽ bị chúng tác động và loại thải.
Nhưng chỉ nhận thức không thôi thì chưa đủ. Con người còn phải biết vận dụng những cái họ nhận thức được vào hoạt động thực tiễn: cần phải sống, lao động và sản xuất cho phù hợp với quy trình vận động chung của xã hội và tự nhiên.
Bên cạnh đó, cần xây dựng được một xã hội có đủ điều kiện giúp con người không ngừng nâng cao nhận thức cũng như sửa đổi những hành vi của mình để hoà cùng quy luật phát triển của hai yếu tố trên, nhưng cần phải hướng tới xã hội như thế nào? _ Mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên trước hết phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, vào chế độ xã hội, vào tính chất của những điều kiện chính trị và kinh tế- xã hội mà trong đó con người sống và hoạt động. Muốn điều khiển được lực lượng tự nhiên cần phải điều khiển được lực lượng xã hội. Do vậy, để khắc phục được hoàn toàn tình hình tự nhiên bị phá huỷ như hiện nay thì phải thay đổi được quan hệ sản xuất - phải thay đổi được chế độ xã hội thống trị: chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi chính hệ thống ấy không chỉ bóc lột con người, mà còn vơ vét cả tự nhiên một cách ghê gớm nhằm đem lại lợi ích tối đa. Về lý luận, chủ nghĩa cộng sản sẽ là một hình thái xã hội lý tưởng, bởi với nó, con người sẽ được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, mới được hành động tự do, theo cái nghĩa là con người sẽ có đầy đủ những điều kiện xã hội và những tri thức cần thiết để nắm bắt các quy luật xã hội và biết tự giác sống tuân theo những quy luật đó.
Tóm lại, con người cần không ngừng nâng cao nhận thức của mình về quy luật vận động của tự nhiên cũng như xã hội, cần biết vận dụng chúng vào thực tiễn cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của mình, cần vươn tới một xã hội cao hơn về chất để từ đó góp phần đưa quỹ đạo vận động của toàn bộ tự nhiên và xã hội đi theo một hướng tiến lên, chứ không phải có sự mất đi hay đào thải bất kì yếu tố nào trong hai yếu tố ấy.
4. Vấn đề môi trường:
4.1. Môi trường:
Môi trường là nơi sinh sống và hoạt động của con người, là nơi tồn tại của xã hội. Đó là môi trường sinh -địa - hoá học, hay sinh quyển. Sinh quyển là vùng lưu hành sự sống trên trái đấy, là một hệ thống mở về nhiệt động học, bao gồm toàn bộ các cơ thể sống (sinh thể s), các sản phẩm và các chất thải trong quá trình hoạt động sống của chúng, đồng thời còn bao gồm cả phần khí quyển (không khík) , thuỷ quyển (nước n), thạch quyển (đất đá ®), và năng lượng mặt trời, là nơi đã và đang có sự sống.
Môi trường sống của con người không đơn giản chỉ là môi trường địa lý, cũng không chỉ là môi trường tự nhiên thuần tuý, mà phải là môi trường tự nhiên - xã hội, bởi
vì con người là một thực thể sinh học - xã hội. Ngày nay môi trường sống của con người được gọi là môi trường sinh thái. Thực chất của vấn đề môi trường sinh thái được cả loài người quan tâm là vấn đề mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa con người, xã hội và tự nhiên.
4.2. Vấn đề môi trường:
Như đã nói ở trên, con người giữ vai trò quan trọng trong mối quan hệ xã hội - tự nhiên. Và trong cuộc sống hiện thực thì vai trò đó được thể hiện chính là trong tình trạngcủa môi trường. Vấn đề môi trường sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và khó giải quyết nhất trong thời đại ngày nay. Hiện nay, môi trường sinh thái đang nổi lên nhiều vấn đề căng thẳng, phức tạp và cấp thiết, có liên quan trực tiếp không chỉ đến sự sống của sinh vật mà còn đe doạ đến sự sống của con ngư