Quan hệ thương mại Viêt - Mỹ là một nhân tố rất quan trọng trong tổng thể quan hệ Việt - Mỹ kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam. Bình thường hoá quan hệ Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại là chủ trương quan trọng và nhất quán của Đảng và nhà nước ta về mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại nhằm thực hiện nhiệm vụ do Nghị quyết Trung ương 4 ( khoá VIII ) đã đề ra “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa với nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới” và phải “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, gia nhập APEC, WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được với các liên minh Châu Âu, khôi phục thị trường Nga và các nước Đông Âu; phát triển quan hệ chính ngạch với Trung Quốc; tăng cường quan hệ buôn bán, hợp tác với Ấn Độ; mở rộng thị trường Mỹ, đẩy mạnh việc tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi, Mỹ La tinh”.
Kể từ lúc Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới được cải thiện và xúc tiến theo chiều hướng tích cực với tốc độ cực nhanh. Nhưng phải đến tháng bảy năm 1995, khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao, hoạt động kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ hơn theo quyết định của Đảng Cộng Sản Việt Nam, một định hướng đúng đắn giúp Việt Nam cải thiện đáng kể về mọi mặt của nền kinh tế. Quan hệ ngoại giao được thiết lập với Mỹ là cơ sở bảo đảm thiện chí của Việt Nam muốn xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở một “luật chơi” bình đẳng với các nước, là cam kết tôn trọng thực hiện quyền và nghĩa vụ của một chủ thể của luật quốc tế, hợp tác chặt chẽ với các định chế quốc tế quan trọng như ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế ngoài những hợp tác kinh tế đa phương khác như gia nhập Hiệp hội Quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Tất cả các động thái đầy đủ thiện chí của Việt Nam đã giúp quốc tế mong muốn mở rộng hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
35 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3143 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan hệ thương mại Việt - Mỹ theo hiệp định thương mại Việt - Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM.
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH.
Tiểu Luận Môn:
LUẬT THƯƠNG MẠI.
Đề Tài:
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ THEO HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT – MỸ.
Người TH: Phạm Hoàng Minh.
GVHD: TSKH Đặng Công Tráng.
TPHCM 1 – 2010.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn:
................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Lời mở đầu.
Quan hệ thương mại Viêt - Mỹ là một nhân tố rất quan trọng trong tổng thể quan hệ Việt - Mỹ kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam. Bình thường hoá quan hệ Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại là chủ trương quan trọng và nhất quán của Đảng và nhà nước ta về mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại nhằm thực hiện nhiệm vụ do Nghị quyết Trung ương 4 ( khoá VIII ) đã đề ra “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa với nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới” và phải “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, gia nhập APEC, WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được với các liên minh Châu Âu, khôi phục thị trường Nga và các nước Đông Âu; phát triển quan hệ chính ngạch với Trung Quốc; tăng cường quan hệ buôn bán, hợp tác với Ấn Độ; mở rộng thị trường Mỹ, đẩy mạnh việc tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi, Mỹ La tinh”.
Kể từ lúc Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới được cải thiện và xúc tiến theo chiều hướng tích cực với tốc độ cực nhanh. Nhưng phải đến tháng bảy năm 1995, khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao, hoạt động kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ hơn theo quyết định của Đảng Cộng Sản Việt Nam, một định hướng đúng đắn giúp Việt Nam cải thiện đáng kể về mọi mặt của nền kinh tế. Quan hệ ngoại giao được thiết lập với Mỹ là cơ sở bảo đảm thiện chí của Việt Nam muốn xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở một “luật chơi” bình đẳng với các nước, là cam kết tôn trọng thực hiện quyền và nghĩa vụ của một chủ thể của luật quốc tế, hợp tác chặt chẽ với các định chế quốc tế quan trọng như ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế ngoài những hợp tác kinh tế đa phương khác như gia nhập Hiệp hội Quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Tất cả các động thái đầy đủ thiện chí của Việt Nam đã giúp quốc tế mong muốn mở rộng hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Quan hệ Thương mại Việt - Mỹ là một hành động đột phá tích cực. Em đã chọn đề tài “ Quan hệ Thương mại Việt - Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ ", bởi qua hiệp định này chúng ta có thể biết rõ hơn Việt Nam đã dần tiếp cận với “luật chơi” của Thương mại quốc tế khi cam kết mở rộng một số lĩnh vực, theo đúng luật lệ của Thương mại Quốc tế cho dù ở một mức độ hạn chế phù hợp với hiện trạng, hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu.
Tiểu luận không tập trung phân tích những nội dung của hiệp định thương mại Việt – Mỹ mà chủ yếu làm rõ những mặt tích cực đã đạt được trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ dựa trên những điều khoản đã được ký kết giữa hai bên trong “hiệp định thương mại Việt – Mỹ”. Qua đó chúng em cũng xin đề ra những giải pháp chủ quan để thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước nhằm tạo ra một mối quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở bảo đảm được lợi ích của cả hai bên.
Chương I: Những vấn đề chung về thương mại quốc tế và tổng quan về hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
1.Những vấn đề chung về thương mại quốc tế.
1.1.Khái niệm.
Thương mại quốc tế là một quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa.Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Ngày nay thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy phải coi trọng thương mại quốc tế như là một tiêu đề, một nhân tố phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
1.2.Quá trình hình thành, phát triển và lợi ích của thương mại quốc tế.
Nói chung con người đã sớm tìm thấy lợi ích của thương mại quốc tế, nhưng những lý thuyết về lợi ích của thương mại quốc tế chỉ thực sự xuất hiện ở thế kỷ 15 thông qua thuyết trọng thương. Thuyết trọng thương ra đời và phát triển mạnh ở Châu Âu, mạnh mẽ nhất là ở Anh và Pháp từ giữa thế kỷ 15, 16, 17 và kết thúc thời kỳ hoàng kim của mình vào giữa thế kỷ 18. Các tác giả tiêu biểu của chủ nghĩa này là: Jean bordin, Mellon, Jully, Colbert, Thomas Mrm, Josias Chhild, James Stewart…
Năm 1776 nhà kinh tế học cổ điển người Anh Adam Smith cho ra tác phẩm “nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các quốc gia”.Chính nhờ tác phẩm này mà nhiều người suy tôn ông là cha đẻ của kinh tế học.
Năm 1817, nhà kinh tế học David Ricardo đã chứng minh: chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho tất cả các nước và gọi kết quả là quy luật lợi thế tương đối (hay lý thuyết về lợi thế so sánh ). Quy luật lợi thế so sánh nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai nước.
Quy luật lợi thế tương đối nói rằng: “các nước hay cá nhân nên chuyên môn hoá trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương đối thấp hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn”.
Nếu không có thương mại quốc tế thì mỗi nước sẽ phải sản xuất cả hai loại hàng vào các chi phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm là giá trị nội địa của mỗi sản phẩm bán ra ở thị trường trong nước .
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng soản xuất và tiêu dùng của một nước.Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dung tất cả các mặt hàng với số lương nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong khi nước thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không mua bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội với tiến bộ khoa học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng cao số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào, sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng.
Còn nhiều lý do khác khiến cho thương mại quốc tế rất quan trọng trong thế giới hiện đại. Một trong những lý do đó có thể là thương mại quốc tế tối cần thiết cho chuyên môn hoá để có hiệu quả kinh tế cao trong ngành công nghiệp hiên đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện trong hàng hoá các nước sản xuất.
Sự khác nhau về sở thích và mức cung cầu là những nguyên nhân dẫn tới việc xuất hiện thương mại quốc tế. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nước giống hệt nhau, thương mại quốc tế vẫn có thể xảy ra do sự khác biệt về sở thích.
2.Tổng quan về hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
2.1.Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Từ trước năm 1986 là một quốc gia có nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, vận hành theo cơ chế mệnh lệnh, hành chính. Điều này cũng chính là nguyên nhân khiến cho nền kinh tế trì trệ, kém hiệu quả, kém linh hoạt, kém năng động.Tuy nhiên trong những năm gần đây Chính phủ đã thay đổi cơ chế quản lý cùng với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng , sự ra đời của các liên minh kinh tế,các khu vực mậu dịch tự do( NAFTA , AFTA) . Việt nam cũng đang dần đổi mới để phù hợp với xu thế của thời đại bằng chính sách mở cửa nền kinh tế thu hút sự đầu tư nước ngoài và với chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu , hàng hoá của Việt nam đã có mặt trên nhiều thị trường nước ngoài . Ví dụ như : EU , Nhật Bản , Hàn Quốc , ASEAN , NICS…
Mỹ là một thị trường lớn nhất thế giới với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên
tới trên 1300 tỷ USD và hứa hẹn là thị trường cung cấp các sản phẩm máy móc , công nghệ phục vụ công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở Việt nam. Do đó việc ký kết và thông qua hiệp định thương mại giữa hai nước là điều cần kiện thiết cho cả Việt nam và Mỹ thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại song phương .
2.2.Lợi ích mà Việt Nam thu được trong quan hệ thương mại với Mỹ.
- Phát triển quan hệ ngoại thương theo hướng xuất khẩu: Việt Nam đang tích cực hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, chuyển sang nền kinh tế thị trường hướng vào xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ bé do chúng ta chậm hơn các nước khác trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ tăng lên khi Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc. Ngoài ra Hoa Kỳ còn có thể dành cho Việt Nam hưởng lợi ích từ Hệ thống ưu đãi thuế quan chung ( Generalized System of Preferences- GSP). Đây là một chương trình đem lại lợi ích hầu như một cách độc quyền cho các nước đang phát triển bằng cách Hoa Kỳ loại bỏ thuế quan nhập khẩu đối với một số sản phẩm nào đó, nhằm giúp các nước kém phát triển dễ dàng tiếp cận vào thị trường Mỹ. Những loại hàng nào chỉ ra một cách cụ thể hai điều kiện để được hưởng GSP thì được miễn thuế nhập khẩu. Hai điều kiện đó là: hàng hoá đó thuộc danh mục được hưởng GSP và đáp ứng nguyên tắc xuất xứ từ các nước đang phát triển được hưởng lợi ( Beneficiary Developing Coutry-BDC). Ngoài ra Hoa Kỳ sẽ bật đèn xanh trong việc Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Diễn đàn kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC). Qua đó, Việt Nam có thể mở rộng thị phần của mình tại thị trường Mỹ cũng như trên thị trường thế giới thông qua việc xuất khẩu những loại hàng hoá mà Việt Nam có lợi thế.
- Việt Nam đang phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do vậy nhu cầu về vốn, công nghệ là rất lớn. Những nhu cầu này có thể đáp ứng qua hình thức đầu tư hấp dẫn để thu hút nguồn vốn FDI, trong đó có các công ty của Mỹ, do vậy nền kinh tế Việt Nam không chỉ tiếp nhận một khối lượng vốn lớn mà còn tiếp cận được công nghệ "nguồn" hiện đại. Hơn thế các cán bộ Việt Nam có thể học tập được những kinh nghiệm kinh doanh quốc tế hiện đại thông qua tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài, công nhân Việt Nam có thể được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức, tay nghề do phía Hoa Kỳ tổ chức.
- Đầu tháng 5/1997, hai bên đã đồng ý cử đại sứ nhằm phát triển quan hệ giữa hai nước. Việt Nam luôn xác định là khép lại quá khứ, xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn tập trung phát triển kinh tế. Như vậy, quan hệ kinh tế Việt- Mỹ là một tất yếu khách quan không những phù hợp với xu thế vận động của thời đại mà còn thể hiện ý nguyện của nhân dân hai nước.
2.3.Lợi ích mà Mỹ thu được trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
- Vị trí địa lý của Việt Nam có thuận lợi đáng kể là nằm trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng. Hệ thống cảng biển là cửa ngõ không những cho nền kinh tế Việt Nam mà cả các quốc gia lân cận, đặc biệt là vùng Tây Nam lục địa Trung Hoa. Vị trí địa lý của Việt Nam tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển, tái xuất khẩu và chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận. Sự thuận lợi về vị trí địa lý là một tài nguyên vô hình. Tài nguyên thiên nhiên rất phong phú và đa dạng bao gồm đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển...Sự phân bố các tài nguyên là phân tán và trong một số trường hợp ,điều kiện khai thác còn tương đối khó khăn, đòi hỏi có nguồn vốn lớn và công nghệ hiện đại.
- Dân cư và nguồn lao động Việt Nam liên quan nhiều tới việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Quy mô dân số lớn, chiếm 1,3% dân số thế giới, đứng thứ 13 trong số các nước đông dân nhất. Nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, tư chất người lao động Việt Nam rất cần cù, sáng tạo với nhiều ngành nghề cổ truyền, tiếp thu nhanh nghề nghiệp mới. Lao động Việt Nam được đào tạo ở nhiều nguồn khác nhau, trình độ văn hoá, khoa học, tay nghề kỹ thuật đang được nâng cao, có khả năng ứng xử linh hoạt, có thể tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, sức lao động của Việt Nam còn hạn chế về thể lực, về trình độ tổ chức kỷ luật, về khả năng hợp tác trong công việc và còn thiếu nhiều việc làm.
- Trong phạm vi khu vực Đông Nam Á- Tây Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí địa lý chính trị quan trọng: quan hệ hợp tác với Việt Nam là một nước cờ không thể bỏ qua trong trò chơi cân bằng lực lượng của các cường quốc trong tương lai gần để giành giật và phát triển ảnh hưởng của mỗi cường quốc kinh tế ở khu vực này, một khu vực đầy tính năng động và có thể trở thành một trung tâm kinh tế thế giới trong thể kỷ 21.
2.4.Những nội dung chủ yếu của hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
Hiệp Định thương mại Việt Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 là một sự kiện đánh dấu bước phát triển tích cực của mối quan hệ song phương kể từ ngày hai quốc gia lập quan hệ ngoại giao. Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Sở hữu trí tuệ và Quan hệ đầu tư. Như vậy có nghĩa là bản Hiệp định này tuy được gọi là Hiệp định về quan hệ thương mại nhưng không chỉ đề cập đến lĩnh vực thương mại hàng hoá. Khái niệm “ thương mại ” ở đây được đề cập theo ý nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và có tính đến đặc điểm kinh tế của mỗi nước để quy định sự khác nhau về khung thời gian thực thi các điều khoản. Do Mỹ đã tuân thủ tất cả các luật lệ của WTO và là một trong những nước tự do hoá thương mại nhất trên thế giới nên hầu như tất cả các điều khoản trong Hiệp định, Mỹ đều thực hiện ngay. Còn Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định các lộ trình thực hiện cho phù hợp với Việt Nam . Hiệp định được xây dựng trên hai nguyên tắc quan trọng đó là nguyên tắc “tối huệ quốc” và “đối xử quốc gia”. Khái niệm “Tối huệ quốc” (đồng nghĩa với Quan hệ Thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên cam kết đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi so với cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên không kể đến các nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham gia, ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành cho các nước tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ta cũng không được hưởng tất cả các ưu đãi Mỹ dành cho các nước khác trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Còn khái niệm “Đối xử quốc gia” thì nâng mức này lên như đối xử với các công ty trong nước. Hai khái niệm này quan trọng vì chúng được đề cập đến ở hầu hết các chương của bản Hiệp định. Ngoài ra, các phụ lục được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ, chưa hoặc vĩnh viễn không áp dụng hai khái niệm trên.
Chương 1: Thương mại hàng hoá gồm 9 điều.
Chương 2: Quyền Sở hữu trí tuệ gồm 18 điều.
Chương 3: Thương mại dịch vụ gồm 11 điều.
Chương 4: Phát triển Quan hệ đầu tư gồm 15 điều.
Chương 5: Những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Chương 6: Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng cáo.
Chương 7: Những điều khoản chung.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét những nội dung chủ yếu của Hiệp định.
2.4.1 Thương mại hàng hoá :
Những quyền về thương mại: Cả hai bên cam kết thực hiện những quyền thương mại theo chuẩn mực quốc tế và WTO. Tuy nhiên, đây là lần đầu Việt Nam đồng ý thực hiện quyền về xuất nhập khẩu một cách cởi mở, tuân theo những quy định chặt chẽ của WTO. Do vậy, những quyền đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các công ty do Mỹ đầu tư, và tất cả các cá nhân và công ty Mỹ hoạt động tại Việt Nam theo Hiệp định này sẽ được tiến hành trong từng giai đoạn từ 3- 6 năm (được áp dụng dài hơn đối với một số mặt hàng nhạy cảm).
Quy chế tối huệ quốc: Việt Nam và Mỹ cam kết thực hiện đối xử thuế quan tối huệ quốc đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào mỗi nước (mức thuế quan này là 50% đối với các quốc gia không nhận được MFN). Cắt giảm thuế quan: Việt Nam đồng ý cắt giảm thuế quan (mức cắt giảm điển hình là từ 1/3 đến 1/2 ) đối với một loạt các sản phẩm được các nhà xuất khẩu Mỹ quan tâm như các sản phẩm vệ sinh, phim, máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, xe gắn máy, điện thoại di động, video games, thịt cừu, bơ, khoai tây, cà chua, hành, tỏi, các loại rau xanh khác, nho, táo và các loại hoa quả tươi khác, bột mỳ, đậu tương, dầu thực vật, thịt và cá đã được chế biến, các loại nước hoa quả...Việc cắt giảm thuế quan các mặt hàng này được áp dụng dần dần trong giai đoạn 3 năm. Phía Mỹ thực hiện cắt giảm ngay theo quy định của Hiệp định song phương.
Những biện pháp phi quan thuế: Phía Mỹ, theo quy định của WTO sẽ không có những rào cản phi quan thuế (trừ hạn ngạch đối với hàng dệt may); trong khi đó, Việt Nam đồng ý loại bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với một loạt các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp (các linh kiện lắp ráp, thịt bò, các sản phẩm cam quýt...) trong giai đoạn từ 3 -7 năm, phụ thuộc vào từng mặt hàng. Cấp giấy phép nhập khẩu: Việt Nam sẽ loại bỏ tất cả các thủ tục cấp giấy phép một cách tuỳ ý, và sẽ tuân thủ theo các quy định của Hiệp định WTO. Về việc định giá trị đánh thuế hải quan và các khoản phí hải quan, Việt Nam cần tuân thủ các luật lệ của WTO đối với việc định giá các giao dịch và định giá thuế hải quan, cũng như hạn chế các khoản phí hải quan đánh vào các dịch vụ được thanh toán trong vòng 2 năm.Về phía Mỹ, theo Luật Thương mại Mỹ, các công ty của Việt Nam và các nước khác đều sẽ được cấp giấy phép hoạt động khi có yêu cầu. Những thước đo về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm: Hai bên cam kết tuân thủ theo các tiêu chuẩn của WTO; các quy định về kỹ thuật, và những thước đo về vệ sinh an toàn thực phẩm phải được áp dụng trên cơ sở đối xử quốc gia, và chỉ được áp dụng trong chừng mực cần thiết để giải quyết những mục đích chính đáng (bảo vệ con người, bảo vệ cuộc sống của động vật, sinh vật).
Mậu dịch quốc doanh: Cần phải được thực thi theo các quy định của WTO (ví dụ, các doanh nghiệp quốc doanh Việt Nam trước kia chỉ tiến hành các cuộc giao dịch theo những mối quan tâm về thương mại và còn ít quan tâm tới các quy định của WTO).
2.4.2. Quyền Sở hữu trí tuệ.
Trên lĩnh vực bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ, tuy Việt Nam chưa tham gia nhiều Điều ước Quốc tế đa phương về bảo hộ quyền tác gi