Thuỷ quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước ngọt, nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi. Thuỷ quyển bao gồm đại dương, biển, ao hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết. Khối lượng của thuỷ quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó đại dương có khối lượng chiếm 97,4% toàn bộ thuỷ quyển. Phần còn lại là băng trên núi cao và hai cực trái đất chiếm 1,98%, nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm 0,02%. Ranh giới trên của thuỷ quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới dưới của thuỷ quyển khá phức tạp, từ các đáy đại dương có độ sâu hàng chục km, vài chục mét ở các thấu kính nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng đất ngập nước. Theo diện tích che phủ, thuỷ quyển chiếm 70,8% hay 361 triệu km2 bề mặt trái đất với độ sâu trung bình 3.800m. Thuỷ quyển phân bố không đều trên bề mặt trái đất, ở nam bán cầu là 80,9%, ở bắc bán cầu là 60,7%.
Về mặt sinh thái, thủy quyển là nơi tồn tại một loạt các hệ sinh thái rất đa dạng và phong phú. Người ta chia các hệ sinh thái dưới nước thành: hệ sinh thái nước mặn và hệ sinh thái nước ngọt. Do các đặc trưng riêng của nó, hệ sinh thái nước ngọt lại được chia thành hệ sinh thái nước tĩnh (ao, hồ) và hệ sinh thái nước chảy (sông, suối).
Các hệ sinh thái dưới nước rất đa dạng, từ các rạn san hô ở biển đến các hệ sinh thái hồ ao. Cuộc sống xuất phát từ đại dương và nền văn minh nhân loại cũng xuất phát từ các lưu vực các con sông lớn. Bảo vệ các hệ sinh thái dưới nước chính là bảo vệ sự sống nhân loại.
38 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4745 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý hệ sinh thái dưới nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục lục………………………………………………………………………...01
Mở đầu………………………………………………………………................04
I. Biển và đại dương…………………………………………………………..05
1. Giới thiệu chung…………………………………………………………..05
2. Chức năng của biển và đại dương…………………………………….….07
1. Sinh vật biển 07
2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển 08
3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên 08
4. Nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các dòng hải lưu và thuỷ triều 09
5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ 09
6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí 09
7. Biển điều hoà khí hậu 10
3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương 10
1. Ô nhiễm biển 10
2. Hiện tượng tràn dầu 11
3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản 12
4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao 13
4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương 14
1. Công cụ pháp chế 14
2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật 15
3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển 16
3.1.Các hệ sinh thái rạn san hô 16
3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển 18
II. Các hệ dòng chảy 20
1. Giới thiệu chung 20
2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam 22
1. Sông Nile 22
2. Sông Hồng 25
3. Sông Mekong 26
3. Chức năng của sông 26
1. Sông cung cấp thủy sản 26
2. Sông cung cấp nước ngọt 27
3. Sông điều hòa khí hậu 28
4. Sông đồng hóa các chất thải của con người 28
5. Sông là đường vận tải quan trọng 28
6. Sông cung cấp sức nước 28
7. Sông chuyên chở phù sa 28
4. Tác động tiêu cực của con người lên các dòng sông 29
1. Khai thác quá mức nguồn nước 29
2. Đắp đập, xây hồ làm biến đổi hệ sinh thái sông 29
3. Ô nhiễm các dòng sông 30
4. Khai thác quá mức, tận diệt thủy sản 30
5. Quản lý hệ sinh thái sông 30
III. Các thủy vực nước tĩnh 32
1. Giới thiệu chung 32
2. Chức năng của hồ ao 32
1. Hồ cung cấp và điều hòa nguồn nước 32
2. Hồ điều hòa vi khí hậu. 32
3. Hồ cung cấp thủy sản 33
4. Hồ là nơi chứa và phân giải chất thải 33
5. Hồ là cảnh quan du lịch 33
3. Tác động tiêu cực của con người đến hồ 33
1. Ô nhiễm hồ ao 33
2. Cạn kiệt hồ ao 34
3. Tác động của hồ nhân tạo 35
4. Quản lý hồ ao 35
Kết luận 36
Tài liệu tham khảo 38
Mở đầu
Thuỷ quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước ngọt, nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi. Thuỷ quyển bao gồm đại dương, biển, ao hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết. Khối lượng của thuỷ quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó đại dương có khối lượng chiếm 97,4% toàn bộ thuỷ quyển. Phần còn lại là băng trên núi cao và hai cực trái đất chiếm 1,98%, nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm 0,02%. Ranh giới trên của thuỷ quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới dưới của thuỷ quyển khá phức tạp, từ các đáy đại dương có độ sâu hàng chục km, vài chục mét ở các thấu kính nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng đất ngập nước. Theo diện tích che phủ, thuỷ quyển chiếm 70,8% hay 361 triệu km2 bề mặt trái đất với độ sâu trung bình 3.800m. Thuỷ quyển phân bố không đều trên bề mặt trái đất, ở nam bán cầu là 80,9%, ở bắc bán cầu là 60,7%.
Về mặt sinh thái, thủy quyển là nơi tồn tại một loạt các hệ sinh thái rất đa dạng và phong phú. Người ta chia các hệ sinh thái dưới nước thành: hệ sinh thái nước mặn và hệ sinh thái nước ngọt. Do các đặc trưng riêng của nó, hệ sinh thái nước ngọt lại được chia thành hệ sinh thái nước tĩnh (ao, hồ) và hệ sinh thái nước chảy (sông, suối).
Các hệ sinh thái dưới nước rất đa dạng, từ các rạn san hô ở biển đến các hệ sinh thái hồ ao. Cuộc sống xuất phát từ đại dương và nền văn minh nhân loại cũng xuất phát từ các lưu vực các con sông lớn. Bảo vệ các hệ sinh thái dưới nước chính là bảo vệ sự sống nhân loại.
Thủy quyển đóng vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống trên hành tinh của chúng ta. Tuy nhiên, các hoạt động của con người đang ngày càng tác động xấu đến thủy quyển và các hệ sinh thái dưới nước. Chính vì vậy, tìm hiểu các hệ sinh thái dưới nước, các tác động của con người lên các hệ sinh thái dưới nước, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý hiệu quả các hệ sinh thái này nhằm mục đích duy trì chất lượng các thành phần của hệ sinh thái này (duy trì đa dạng sinh học, duy trì, cải thiện chất lượng môi trường nước và bảo vệ các chức năng của các hệ sinh thái nước) là vấn đề quan trọng.
Tiểu luận này phân tích ảnh hưởng của con người lên thủy quyển và đề cập đến các biện pháp quản lý chúng theo phương pháp tiếp cận tổng hợp. Tuy nhiên, đây là vấn đề rộng lớn, trong khi phạm vi tiểu luận và hiểu biết của nhóm thực hiện còn nhiều hạn chế nên tiểu luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm thực hiện tiểu luận rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn.
I. Biển và đại dương
1. Giới thiệu chung
Biển và đại dương chiếm khoảng ¾ diện tích trái đất, được chia thành 4 đại dương chính: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương với các đặc trưng chính sau:
Bảng 1: Các đặc trưng cơ bản của các đại dương (theo Lưu Đức Hải)
Tên đại dương
Diện tích
Thể tích
Độ sâu trung bình
triệu km2
%
106km2
Thái Bình Dương
178,7
49,5
707,1
3957
Ấn Độ Dương
76,2
21,0
248,6
3736
Đại Tây Dương
91,6
25,4
330,1
3602
Bắc Băng Dương
14,8
4,1
16,7
1131
Tổng cộng
361,3
100
1338,5
3704
Trong các đại dương, người ta thường chia thành các vùng biển như Biển Nam Trung Hoa, Biển Bantích, Biển Bắc…. Phần biển ăn sâu vào đất liền gọi là vịnh như vịnh Hạ Long. Có một số biển không có liên hệ với các đại dương gọi là biển hồ như biển Caspi.
Người ta chia địa hình đáy biển theo độ sâu trong vùng tiếp giữa biển và thềm lục địa thành thềm lục địa, đáy biển, vực biển và các dãy núi giữa đại dương (xem hình 1). Trong đó, đa dạng sinh học biển và đại dương tập trung chủ yếu ở khoảng 200m đầu tính từ mặt nước biển, tức là trong vùng thềm lục địa, do đây là nơi ánh sáng còn chiếu tới.
Hình 1: Cấu trúc địa hình đáy biển
Các đặc trưng vật lý của nước biển bao gồm tỷ trọng, nhiệt độ, sự truyền bức xạ ánh sáng trong nước biển, mực nước biển.
Nước biển chứa hầu hết các nguyên tố hóa học của vỏ trái đất với nồng độ khác nhau. Trong đó các muối kiềm và kiềm thổ là lớn nhất.
Mặt biển chịu tác động của các loại sóng, thủy triều và các dòng chảy trên biển. Người ta phân sóng biển thành các loại: sóng gió, sóng áp, sóng xumani, sóng tàu, sóng thủy triều. Mực nước biển dao động theo chu kỳ thời gian gọi là chu kỳ triều do tác động tổng hợp của lực hấp dẫn của mặt trăng và mặt trời.
Khối nước biển chuyển động theo chiều ngang gọi là các dòng chảy. Những dòng chảy biển (hải lưu) lớn trên thế giới gồm:
- Hệ thống dòng chảy Gulfstream ở Đại Tây Dương rộng vài trăm km, dài 800km, tốc độ 2,5 m/s, dịch chuyển một khối nước 70 m3/s.
- Hệ thống dòng chảy nóng Kuroshivo ở Bắc Thái Bình Dương rộng 80 km dài 400 km di chuyển khối nước 45 m3/s
- Hệ thống dòng chảy lạnh Peru xuất phát từ Nam Cực.
Nước ta nằm bên bờ biển Đông với bờ biển dài trên 3260 km và thềm lục địa rộng khoảng 1 triệu km2 với trên 3000 hòn đảo. Biển đang mang lại cho nước ta nhiều nguồn lợi lớn và có ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ giàu lên từ biển.
Biển Ðông của Việt nam có diện tích 3.447.000 km2, với độ sâu trung bình 1.140m, nơi sâu nhất 5.416m. Vùng có độ sâu trên 2.000m chiếm 1/4 diện tích thuộc phần phía Ðông của biển. Thềm lục địa có độ sâu < 200m chiếm trên 50% diện tích.
2.Chức năng của biển và đại dương
1. Sinh vật biển
Sinh vật biển là nguồn lợi quan trọng nhất của con người, gồm hàng loạt nhóm động vật, thực vật và vi sinh vật. Hai nhóm đầu có tới 200.000 loài. Hiện nay người ta ước tính trong số 63 lớp động vật thì có 52 lớp ở đại dương, trong số 33 lớp thực vật thì biển và đại dương có 10 lớp. Sản lượng sinh học của biển và đại dương như sau: Thực vật nổi 550 tỷ tấn, thực vật đáy 0,2 tỷ tấn, các loài động vật tự bơi (mực, cá, thú...) 0,2 tỷ tấn. Năng suất sơ cấp của biển khoảng 50 - 250g/m2/năm.
Vùng biển nước ta hiện có chừng 11 ngàn loại sinh vật, trong đó có khoảng 6 ngàn loài động vật đáy, hơn 2 ngàn loài cá, hơn 6 trăm loài rong, hơn 1 ngàn loại động vật và thực vật phù du, trên 200 loài tôm, 15 loài rắn, 5 loài rùa, 12 loài thú biển và 43 loài chim nước.
Trong vùng biển Việt Nam có khoảng trên 1 ngàn km2 rạn san hô với khoảng trên 300 loài san hô đá, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam nhưng hiện nay chỉ còn khoảng 20% loài thuộc mức tốt và rất tốt. Sống quanh quẩn trong các vùng rạn san hô có trên 2.000 loài sinh vật đáy và cá. Đây là vùng có tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học, du lịch sinh thái, nguồn lợi sinh vật biển và nguồn giống hải sản tự nhiên.
Biển Việt Nam có hơn 2000 loài cá, trong đó có khoảng 130 loài có giá trị kinh tế cao. Sản lượng khai thác cho phép hằng năm khoảng 1,4-1,5 triệu tấn. Do đặc điểm của vùng biển nhiêt đới nên cá biển của Việt Nam phần lớn là các loài kích thước nhỏ và chu kỳ sinh sản ngắn. Sản lượng khai thác cá biển hằng năm hiện nay khoảng 1,2- 1,3 triệu tấn.
2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển
Muối biển là khoáng chất không thể thiếu được trong đời sống con người. Ngoài công dụng như một gia vị và khoáng chất trực tiếp cung cấp cho cơ thể con người, muối biển còn được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp. Ngoài muối, biển còn cung cấp cho ta nhiều khoáng chất, không chỉ trong khối nước mà còn cả dưới đáy biển.
Biển và đại dương là kho chứa hoá chất vô tận. Tổng lượng muối tan chứa trong nước biển là 48 triệu km3, trong đó có muối ăn, iốt và 60 nguyên tố hoá học khác. Các loại khoáng sản khai thác chủ yếu từ biển như dầu khí, quặng Fe, Mn, quặng sa khoáng và các loại muối.
3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên
Sa khoáng biển - ven biển là loại hình mỏ có chứa chủ yếu các khoáng vật nặng của các nguyên tố hiếm quý như titan, ziacôn và xeri đã được phát hiện ở một số nơi trên bờ biển nước ta (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hoà, Vũng Tàu).
Vật liệu xây dựng ở biển bao gồm cát, cuội, sỏi, đá vôi, vỏ sò ốc, phân bổ chủ yếu ở các vùng ven biển, ven đảo, đáy các vũng, vịnh và trong trầm tích thềm lục địa. Trong số đó, vật liệu dồi dào nhất là cát. Cát thường giàu chất thạch anh, ít tạp chất.
Dầu khí được khai thác chủ yếu là từ các thềm lục địa. Sản lượng dầu khí khai thác ở vùng biển Việt Nam đạt 20 triệu tấn vào năm 2000 và hiện nay mỗi năm khai thác gần 30 triệu tấn.
4. nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các dòng hải lưu và thuỷ triều.
Năng lượng sạch từ biển và đại dương hiện đang được khai thác phục vụ vận tải biển, chạy máy phát điện và nhiều lợi ích khác của con người.
5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ.
Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2004, những con tàu vận tải trên biển đã chuyên chở vòng quanh thế giới hơn 90% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, trị giá khoảng 8.900 tỷ USD. Hàng hóa chủ yếu được vận chuyển trên biển là dầu khí với những con tầu hàng vạn , chục vạn tấn. Các eo biển quan trọng nhất trên tuyến đường vận tải biển là eo Malacca, kênh đào Panama, kênh đào Suê.
6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí
Du lịch biển đang là ngành du lịch quan trọng, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho các vùng ven biển. Cảnh quan các hòn đảo trên biển và các bãi biển trải dài dọc bờ biển đang là nguồn tài nguyên khổng lồ và vẫn chưa được khai thác hết.
Việt Nam có những khu du lịch biển nổi tiếng như Hạ Long, Nha Trang, hay các hòn đảo du lịch nhiều tiềm năng như Cát Bà, Phú Quốc, Côn Đảo.
Nói đến lợi thế của bờ biển Việt Nam ta còn phải tính đến tiềm năng phát triển du lịch. Đó là những yếu tố thuận lợi như vùng biển rộng, bờ biển dài, nhiều đảo, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, giàu đa dạng sinh học, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch sử ven biển. Năm 1994, vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới; năm 2003, vịnh Nha Trang được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp nhất hành tinh.
Ta đã xác định được dọc theo ven biển cả nước có đến 126 bãi cát biển, trong đó có khoảng 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đó là chưa kể đến hàng trăm bãi nhỏ, đẹp, nằm tĩnh lặng ven các vịnh, vũng, ven các đảo hoang ở vịnh Bắc Bộ và miền Nam Trung Bộ, rất hợp với loại hình du lịch pícníc, thích hợp với nhu cầu thưởng ngoạn của những nhóm khách nhỏ.
Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên biển - đảo, hang động ngầm, các vùng rạn san hô lộng lẫy kỳ thú, cùng với các giá trị văn hoá của những di tích lịch sử ven biển đã tạo nhiều lợi thế cho phát triển du lịch biển. Một số hình thức du lịch đặc biệt như du lịch sinh thái, du lịch lặn, du lịch bổ dưỡng chữa bệnh đã hình thành và phát triển tốt, mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nước ta. 19 trong số 31 điểm du lịch quốc gia thuộc các tỉnh ven biển (tiếp nhận 37% lượt khách du lịch so với cả nước)
7. Biển điều hoà khí hậu
Biển và đại dương có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều hòa khí hậu trên Trái Đất. Hàng năm, đại dương trao đổi với khí quyển một lượng khoảng 90 tỷ tấn Cacboníc. Cũng từ biển, các cơn bão nhiệt đới được tạo thành. Các dòng chảy trên biển điều hòa khí hậu ở cấp độ toàn cầu, chúng ảnh hưởng đến khí hậu Trái đất rõ nét nhất thông qua các hiện tượng El Ninõ và La Nina.
3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương
1.Ô nhiễm biển
Một trong những nguyên nhân gây suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ sinh thái san hô, làm suy giảm các loài sinh vật biển và suy giảm đa dạng sinh học biển là hiện tượng ô nhiễm môi trường biển. Các nguyên nhân gây ra ô nhiễm biển cơ bản đều xuất phát từ các hoạt động của con người như các hoạt động trên biển, khai thác và thăm dò tài nguyên trên thềm lục địa và đáy đại dương, việc thải chất độc hại ra biển, vận tải hàng hoá trên biển và ô nhiễm khí quyển. Các nguồn gây ô nhiễm trên đây đang ngày càng gia tăng và đe doạ chất lượng môi trường biển. Các nguồn gây ô nhiễm từ lục địa theo sông ngòi mang ra biển nước thải, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học, chất phóng xạ,...Theo tính toán vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20 lượng chất thải rắn đổ ra biển hàng năm ước chừng khoảng 50 triệu tấn gồm đất, cát, rác , phế thải và chất phóng xạ,...một số chất thải lắng tu lại ven biển còn một số còn lại lan truyền ra khắp các đại dương. Theo ước tính của các nhà khoa học thì gần 2/3 lượng DDT (khoảng 1 triệu tấn) do con người đã sản xuất hiện vẫn còn tồn tại trong nước biển, chúng sẽ bị tích luỹ dần trong cơ thể các sinh vật biển.
Biển cũng là nơi tiếp nhận một lượng một lượng chất thải lớn từ hoạt động công nghiệp. Một lượng lớn chất thải phóng xạ bị một số quốc gia đổ ra biển. Riêng Mỹ năm 1961 có 4087 thùng và năm 1962 có 6120 thùng phóng xạ được đổ xuống biển. Một lượng lớn vũ khí bom mìn thuốc nổ được tiêu hủy bằng cách nhấn chìm trong biển.
Hiện tượng thủy triều đỏ do ô nhiễm sinh học thường xuất hiện từ đầu tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch hàng năm ở vùng biển Nam Trung Bộ, tạo nên những khối nhầy màu xám, bao quanh một số loài vi tảo biển, làm cho nước biển đặc quánh, có nơi như cháo. Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận là 3 địa phương bị nạn thuỷ triều đỏ tàn phá nặng nề nhất.
2. Hiện tượng tràn dầu
Đại dương là kho tài nguyên thiên nhiên vĩ đại. Các hoạt động thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng để lại hậu quả ô nhiễm biển, đặc biệt là thăm dò và khai thác dầu khí. Hiện tượng rò rỉ dầu từ các dàn khoan và hiện tượng tràn dầu trên biển là những sự cố môi trường nghiêm trọng đe dọa một phạm vi không gian rộng lớn, làm suy thoái nghiêm trọng các hệ sinh thái dưới nước. Khi một lượng dầu lớn lam tỏa trên mặt nước nó sẽ làm giảm khả năng trao đổi các chất khí hòa tan trong nước, giảm khả năng quang hợp và hàm lượng õi hòa tan trong nước sẽ thấp có tác dụng tiêu cực với các loài động thực vật thủy sinh. Số vụ tràn dầu tại Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000 được thống kê trong bảng sau:
Bảng 2: Số vụ tràn dầu từ năm 1995 đến năm 2000
Nguồn: VEPA: Vấn đề môi trường cấp bách Việt Nam
Năm
Số vụ tràn dầu
Lượng dầu (tấn)
1995
2
202
1996
7
68.000
1997
4
2.450
1998
6
12.900
1999
10
7.600
2000
2
45
Tổng
31
91.497
3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản
Nước ta có bờ biển trải dài suốt từ Bắc vào Nam, diện tích biển của nước ta là rất lớn so với diện tích đất liền nên rất thuận lơi cho việc đánh bắt hải sản và phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên việc khai thác các nguồn lợi từ biển nếu không được quy hoạch thì sẽ dẫn đến làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này. Những năm gần đây chúng ta chúng ta đã phát triển nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản một cách ồ ạt dẫn đến việc khai thác một cách thiếu bền vững, làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng này, đặc biệt là việc quy hoach nuôi tô cũng đang là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức vì bên cạnh đó có rất nhiều các vấn đề môi trường xảy ra. Theo các nhà khoa học nguồn lợi thuỷ sản phá Tam Giang đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Đó là việc gia tăng khai thác một cách ồ ạt mà biểu hiện bằng việc gia tăng các loại và số lượng ngư cụ trong khai thác từng loại, kích cỡ mắt lưới ngày càng dày đặc, gia tăng thuyền bè, lao động khai thác thuỷ sản đầm phá. Mặt khác do việc sử dụng các dụng cụ có tính chất huỷ diệt như xung điện, mìn đã làm suy giảm nghiêm trọng. Qua một số dữ liệu phân tích thấy trữ lượng nguồn lợi thuỷ sản Phá Tam Giang ngày càng giảm và trữ lượng khai thác ngày càng tăng. Điều đó càng khẳng định nếu không có các biện pháp quản lý hợp lý thì việc giữ gìn và bảo vệ các loài trong hệ sinh thái dưới nước là khó thực hiện được.
4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao
CO2 tích tụ trong không khí phần lớn được các đại dương hấp thụ. Lượng CO2 trong khí quyển đang tăng lên, vì vậy, lượng CO2 hòa tan vào nước biển cũng tăng lên, kéo theo nồng độ axit trong nước biển cũng ngày càng tăng lên. Sự axit hóa đại dương ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ âm thanh của các phân tử mang điện tích trong nước biển, gây khó khăn cho các sinh vật biển trong việc tìm kiếm thức ăn và bạn tình. Người ta vẫn chưa đánh giá được hết những ảnh hưởng của hiện tượng axit hóa đại dương đến các sinh vật biển. Nhưng kết quả nghiên cứu này một lần nữa cho thấy những tác động của con người (phát thải khí CO2) đối với môi trường và những hậu quả không mong muốn.
Sự nóng lên của mặt nước biển đã tiếp cận tới tầng bình lưu nhiệt đới, lớp khí quyển cách mặt đất 7 đến 10 dặm và kéo dài khoảng 30 dặm. Quá trình tăng lưu thông không khí và độ ẩm từ các chí tuyến đến tầng bình lưu đang lan rộng, sau đó lại giảm xuống ở những vĩ độ cao hơn. Đây là sự lưu thông cơ bản trong hệ thống khí hậu của chúng ta, gọi là sự lưu thông Brewer-Dobson. Sự nóng lên của toàn cầu đang thay đổi rõ rệt xu thế lưu thông nhưng cách thức ra sao hiện vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Trong một nghiên cứu khoa học mới đây, Rudolf Deckert và Martin Dameris thuộc Viện Vật lí học Khí quyển Đức cho biết sự lưu thông cơ bản này đang tăng tốc. Điều này không chỉ thay đổi những phương diện vật chất quan trọng của lưu thông khí quyển mà có thể còn phân phối lại hoặc thay đổi thành phần hoá học của không khí từ tầng bình lưu đến mặt đất.Các nhà khoa học cho biết sự lưu thông Brewer-Dobson sẽ tác động đến khí hậu tương lai với sự thay đổi không những thành phần hóa học và không khí của tầng bình lưu mà của cả bề mặt trái đất.
Sự nóng lên của khí hậu Trái đất kéo theo sự gia tăng hiện tượng tan băng và hiện tượng này khiến mực nước biển dâng cao. Nhìn chung, các nhà khoa học cho rằng trong thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất sẽ tăng 2 - 6oC và mực nước biển sẽ dâng cao thêm 50 - 150 cm; như vậy, rất nhiều vù