Đề tài Quản lý hoạt động thu BHXH khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Chính sách BHXH đối với người lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm Bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”[20]. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân (KTTN) gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng tích lũy, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Kinh tế tư nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu ; nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện đúng những quy định pháp luật đối với người lao động, chẳng hạn như hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động đối với người lao động đặc biệt là chưa tham gia BHXH cho người lao động [27]. Vì vậy, vấn đề tham gia BHXH cho người lao động thuộc khu vực KTTN cần phải được nghiên cứu thỏa đáng nhằm tìm ra những giải pháp để một mặt nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về việc thực hiện chế độ chính sách BHXH đối với khu vực này, mặt khác bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đồng thời tăng thêm nguồn thu để tăng trưởng và phát triển quỹ BHXH. Đến nay công tác thu BHXH đối với những khu vực truyền thống như doanh nghiệp Nhà nước, hành chính sự nghiệp, liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào nền nếp ổn định. Các đơn vị thuộc những khối này nhìn chung có ý thức tự giác trong việc tham gia BHXH. Do vậy, ngành BHXH cần tập trung nguồn lực khai thác thu BHXH ở những khu vực mới, nhiều tiềm năng có khả năng, triển vọng cũng như nhu cầu tham gia BHXH rất lớn chẳng hạn như khu vực KTTN. Trong những năm qua, BHXH tỉnh TT Huế đã có nhiều cố gắng trong việc triển khai thu BHXH đối với khu vực KTTN. Kết quả đã đem lại nhiều khả quan trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, đến số đơn vị và số lao động tham gia BHXH vẫn còn thấp, chưa tương xứng tiềm năng. Đến thời điểm 31/12/2007, mặc dù đã có nhiều cố gắng, cả nước mới có khoảng 47.852 đơn vị đã tham gia BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc, chiếm 35,99% trong tổng số đơn vị KTTN, và 1.669.466 lao động đã tham gia chiếm khoảng 43,33% so với tổng số lao động.

doc135 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2988 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý hoạt động thu BHXH khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT ĐỀ TÀI Chính sách BHXH đối với người lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm Bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”[20]. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân (KTTN) gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng tích lũy, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Kinh tế tư nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu ; nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện đúng những quy định pháp luật đối với người lao động, chẳng hạn như hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động… đối với người lao động đặc biệt là chưa tham gia BHXH cho người lao động [27]. Vì vậy, vấn đề tham gia BHXH cho người lao động thuộc khu vực KTTN cần phải được nghiên cứu thỏa đáng nhằm tìm ra những giải pháp để một mặt nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về việc thực hiện chế độ chính sách BHXH đối với khu vực này, mặt khác bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, đồng thời tăng thêm nguồn thu để tăng trưởng và phát triển quỹ BHXH. Đến nay công tác thu BHXH đối với những khu vực truyền thống như doanh nghiệp Nhà nước, hành chính sự nghiệp, liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào nền nếp ổn định. Các đơn vị thuộc những khối này nhìn chung có ý thức tự giác trong việc tham gia BHXH. Do vậy, ngành BHXH cần tập trung nguồn lực khai thác thu BHXH ở những khu vực mới, nhiều tiềm năng có khả năng, triển vọng cũng như nhu cầu tham gia BHXH rất lớn chẳng hạn như khu vực KTTN. Trong những năm qua, BHXH tỉnh TT Huế đã có nhiều cố gắng trong việc triển khai thu BHXH đối với khu vực KTTN. Kết quả đã đem lại nhiều khả quan trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, đến số đơn vị và số lao động tham gia BHXH vẫn còn thấp, chưa tương xứng tiềm năng. Đến thời điểm 31/12/2007, mặc dù đã có nhiều cố gắng, cả nước mới có khoảng 47.852 đơn vị đã tham gia BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc, chiếm 35,99% trong tổng số đơn vị KTTN, và 1.669.466 lao động đã tham gia chiếm khoảng 43,33% so với tổng số lao động. Với lý do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động thu BHXH khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung: Nhằm góp phần thực hiện tốt công tác thu bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thừa Thiên Huế. 2.2. Mục tiêu cụ thể * Mục tiêu cụ thể của đề tài là: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của hệ thống BHXH, chỉ ra được phương hướng và nhiệm vụ công tác quản lý thu BHXH khu vực KTTN trong thời gian tới. - Phân tích, đánh giá được thực trạng quản lý thu BHXH khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua; những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện thu BHXH khu vực KTTN; Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu BHXH khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. - Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia hoặc chưa tham gia BHXH bắt buộc của doanh nghiệp được điều tra. Từ đó, đề xuất phương hướng và hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao quản lý hoạt động thu BHXH khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 3.1. Đối tượng nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề kinh tế xã hội khu vực KTTN (Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh); Công tác triển khai và thực hiện thu BHXH khu vực KTTN của cơ quan BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế; Điều tra 80 chủ sử dụng lao động doanh nghiệp khu vực KTTN đại diện về những yếu tố tác động đến việc tham gia hoặc chưa tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1 Về nội dung Nghiên cứu quy trình quản lý thu BHXH, đánh giá thực trạng tham gia BHXH khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao quản lý hoạt động thu BHXH khu vực KTTN. 3.2.2 Phạm vi không gian Vùng nghiên cứu là địa bàn Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, do hạn chế về thời gian nên khi điều tra, phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp khu vực KTTN để đánh giá những nhân tố tác động đến tham gia BHXH bắt buộc. Chúng tôi chỉ điều tra, phỏng vấn chủ sử dụng lao động của 80 doanh nghiệp đã tham gia và chưa tham gia BHXH bắt buộc theo tỷ lệ 1:1 tại địa bàn thành phố Huế, là nơi có số lượng doanh nghiệp khu vực KTTN chiếm tỷ trọng lớn nhất của tỉnh. 3.2.3 Phạm vi thời gian Các tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng được thu thập trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2007. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra doanh nghiệp năm 2007. 3.2.4 Hạn chế của đề tài Đề tài chưa đánh giá hiệu quả chính sách BHXH đối với khu vực KTTN, không đánh giá, phân tích được những tác động chính sách BHXH đối với doanh nghiệp khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM 1.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM 1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do trong thực tế cuộc sống có nhiều rủi ro xảy ra, gây nên tổn thất về người và của. Mặc dù con người đã luôn chú ý phòng tránh nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy. Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như hậu quả của rủi ro gây ra. Hiện nay, theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra – đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro. - Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. + Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức là loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất. Chẳng hạn. để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại,... để tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm... Tránh né rủi ro chỉ với nhũng rủi ro có thể tránh né được. Nhưng cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được. + Ngăn ngừa tổn thất - các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để giảm thiểu các tai nạn lao động người ta tổ chức các khóa học nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; đề phòng chống hỏa hoạn, người ta thực hiện tốt phòng cháy chữa cháy... + Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có hỏa hoạn, để giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được hay trong một tai nạn giao thông, để làm giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị... Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết được hiệu quả. - Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro: bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. + Chấp nhận rủi ro- đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận rủi ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người ta gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và có thể phải vay mượn để khắc phục hậu quả tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trũ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất... + Bảo hiểm – đây là một phần quan trọng các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữ các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng [19]. 1.1.2 Lợi ích của bảo hiểm - Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi ro gây ra. - Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp. - Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước. - Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. - Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tác bảo hiểm. - Bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong nước (GDP) của quốc gia. - Cuối cùng, bảo hiểm là chổ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế – xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những rủi ro khôn lường. [33] 1.1.3 Bản chất của bảo hiểm Hoạt động bảo hiểm đã có từ lâu và cho đến nay cũng đã có rẩt nhiều định nghĩa về bảo hiểm, cụ thể: - Dưới góc độ tài chính người ta định nghĩa: “Bảo hiểm là quá trình lập quỹ dự phòng bằng tiền nhằm phân phối lại những chi phí, mất mát không mong đợi”. - Dưới góc độ pháp lý: “Bảo hiểm là sự cam kết bồi thường hoặc chi trả về mặt kinh tế, trong đó người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm phải đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm đã quy định. Ngược lại, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro, sự cố bảo hiểm”. - Trên phương diện Thống kê toán, người ta định nghĩa: “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi với điều kiện người tham gia bảo hiểm nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. - Trên phương diện kinh tế – xã hội, các chuyên gia Pháp định nghĩa: “Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp của mình hoặc cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức chi trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù thiệt hại theo các phương pháp thống kê”. - Nếu xem xét một cách toàn diện thì: “Bảo hiểm là một hoạt động được tổ chức hợp lý bởi tập hợp những người có cùng chung rủi ro có thể xảy ra hoặc các sự kiện bảo hiểm, các khoản đóng góp về tài chính của họ cho phép bồi thường hoặc chi trả theo quy luật thống kê những thiệt hại mà một số người trong tập hợp hoặc người thứ ba phải gánh chịu khi tổn thất hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra” [33]. 1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.2.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của bảo hiểm xã hội 1.2.1.1 Khái niệm về bảo hiểm xã hội “BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính, do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội” [33]. Tuy nhiên, tùy từng giác độ tiếp cận theo chuyên môn đã có cách hiểu khác nhau về BHXH. Ví dụ: - Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, TNLĐ, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết. - Từ giác độ tài chính: BHXH là cách thức chia sẻ rủi ro về tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. - Từ giác độ quản lý vĩ mô: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội [33]. 1.2.1.2 Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội - Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động. Nói cách khác, khi đã tham gia vào hệ thống BHXH, người lao động được bảo hiểm cho đến lúc chết. - Các sự kiện bảo hiểm và các “rủi ro xã hội” của người lao động có liên quan trực tiếp đến thu nhập của họ như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết... Do những sự kiện và rủi ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng rất cơ bản của BHXH. - Người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH thì phải có nghĩa vụ đóng phí BHXH. Người chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng phí BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH là nguồn hình thành quỹ BHXH. Quỹ BHXH dùng để chi trả các trợ cấp khi có các nhu cầu phát sinh về BHXH. - Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ BHXH cũng do luật định và Nhà nước bảo hộ các hoạt động BHXH [33]. 1.2.1.3 Vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động và đối với xã hội Đối với người lao động: BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho những người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh, nhanh chóng khắc phục những khó khăn bằng cách tạo cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện sinh hoạt thuận lợi... giúp họ ổn đinh cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ niềm tin vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như tinh thần nỗ lực vì sự phát triển của doanh nghiệp, cơ quan họ đang làm nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Đối với xã hội: Trước hết, cần phải khẳng định rằng, BHXH là một loại dịch vụ công. Hoạt động BHXH giống như một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ cần cho mọi người chứ không phải chỉ là cán bộ, công nhân viên chức. Khi các tổ chức này sản xuất và cung ứng ngày càng nhiều loại dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng đa dạng các nhu cầu người dân, thì giá trị của những dịch vụ này ngày càng tăng và là một bộ phận trực tiếp làm gia tăng tăng tổng sản phẩm xã hội. Dưới giác độ này, BHXH được xem là một ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế. Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế- xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của họ và tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Thông qua sự trợ giúp của BHXH đối với người lao động khi họ gặp rủi ro, bằng cách tạo ra thu nhập thay thế, BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia, kích thích tiêu dùng của xã hội, hổ trợ và bổ sung các chính sách vĩ mô khác của Chính phủ. Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính quốc gia, tới hoạt động của hệ thống tín dụng, tiền tệ, ngân hàng. Chính vì vậy, trong các hoạt động của BHXH, luôn đặt ra một yêu cầu: quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Đây là một trong những kênh vốn quan trọng, có tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những nguồn đầu tư lớn tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động và tăng tổng sản phẩm quốc dân. Thứ tư, BHXH cũng là một chính sách nhằm thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại giữa người khỏe và người già, người làm việc và người đã về nghỉ hưu, người trẻ tuổi và người cao tuổi, giữa nam và nữ, người đang hưởng trợ cấp và người chưa được hưởng trợ cấp. Đây được gọi là phân phối lại theo chiều ngang. Còn phân phối lại theo chiều dọc là thực hiện điều tiết giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa người giàu và người nghèo. Đây là một mục tiêu quan trọng trong các chính sách kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô [33]. 1.2.2 Chức năng và tính chất bảo hiểm xã hội 1.2.2.1 Chức năng bảo hiểm xã hội - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội [33]. 1.2.2.2 Tính chất của bảo hiểm xã hội - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. - BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. - BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ. T
Luận văn liên quan