Hiện nay do đời sống kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thoả mạn cuộc sống của con người ngày càng cao. Điều đó dẫn đến các phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí cũng như cung cấp thông tin chính xác nhanh chóng và kịp thời nhất là không thể thiếu.Người sử dụng internet ngày càng gia tăng, tình hình sử dụng internet đã trở thành một vấn đề nan giải, trong đó đặc biệt là giới trẻ.
Với xu thế hội nhập hiện nay, chúng ta tiếp cận nhiều lĩnh vực: từ kinh tế đến văn hóa - xã hội; nhiều loại hình hoạt động đa dạng, phong phú; cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã và đang phát triển mạnh mẽ, lan tỏa sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để người dân tiếp cận, học tập, ứng dụng nhiều thông tin bổ ích trong nước và thế giới. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng đã ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống xã hội, buộc những người làm công tác chuyên môn phải suy nghĩ, trăn trở trong việc quản lý, tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí ngang tầm với thời đại mới, thời đại “biến thiên” các hoạt động Internet.
36 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4548 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về Internet, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI : QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ INTERNET
Hiện nay do đời sống kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thoả mạn cuộc sống của con người ngày càng cao. Điều đó dẫn đến các phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí cũng như cung cấp thông tin chính xác nhanh chóng và kịp thời nhất là không thể thiếu.Người sử dụng internet ngày càng gia tăng, tình hình sử dụng internet đã trở thành một vấn đề nan giải, trong đó đặc biệt là giới trẻ.
Với xu thế hội nhập hiện nay, chúng ta tiếp cận nhiều lĩnh vực: từ kinh tế đến văn hóa - xã hội; nhiều loại hình hoạt động đa dạng, phong phú; cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã và đang phát triển mạnh mẽ, lan tỏa sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để người dân tiếp cận, học tập, ứng dụng nhiều thông tin bổ ích trong nước và thế giới. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng đã ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống xã hội, buộc những người làm công tác chuyên môn phải suy nghĩ, trăn trở trong việc quản lý, tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí ngang tầm với thời đại mới, thời đại “biến thiên” các hoạt động Internet.
Ý thức của người sử dụng internet hiện nay rất kém, đây chính là nguyên nhân hàng đầu khiến tình hình tệ nạn phát sinh từ việc sử dụng internet tăng đột biến. Đặc biệt tại các thành phố lớn của cả nước - vấn đề ý thức của người dân đang trở thành một thực trạng đáng báo động
Đối với mỗi cá nhân, mỗi người dân khi sử dụng internet thì việc có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các luật lệ khi sử dụng internet là vô cùng cần thiết và rất quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ ,việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn ,vì họ là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người quyết định vận mệnh của nước nhà, là cầu nối giữa các thế hệ. Do đó,cần phải có các biện pháp giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao ý thức khi sử dụng internet cho thế hệ trẻ.
Hơn nữa ,việc bồi dưỡng và quản lý của nhà nước về internet đối với mỗi cá nhân không chỉ có giá trị vô cùng to lớn mà nó còn giúp cho mọi người nhận biết được phải trái đúng sai chính xác hơn, và trở thành người có ích hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, với nhu cầu cuộc sống tăng rất nhanh, điều hiển nhiên là tốc độ truy cập internet và các ứng dụng internet cũng phải được đẩy nhanh, nhưng đó không phải là nguyên nhân của việc gia tăng tệ nạn cũng như tác hại của internet. Nguyên nhân chính yếu là ý thức của người sử dụng internet cũng như tình hình quản lý của nhà nước về internet. Vậy làm thế nào để giảm thiểu được những tác hại, mặt trái của internet, và nâng cao ý thức khi sử dụng internet cho người dân đặc biệt là sinh viên và cách thức quản lý của nhà nước về lĩnh vực này?. Đây là một câu hỏi lớn đang đặt ra cho cho các cấp chức năng và mọi người dân hiện nay.
Trên thực tế các chuyên gia đã gióng hồi chuông cảnh báo về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam mà trực tiếp là thói quen sử dụng internet của người dân nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng.
Con số thực tế về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam
Lần đầu tiên có một nghiên cứu về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam. Đó là Net Index 2009 do Yahoo và TNS Media Việt Nam công bố ngày hôm qua ( 2/4/2009) tại TP.HCM.
Theo số liệu nghiên cứu của hãng comScore World Metrix, số lượng người sử dụng internet đã vượt mốc 1 tỉ vào tháng 12/2008. Như vậy trong năm nay, số người sử dụng Internet ít nhất cũng có 1 tỷ người, trong đó, số người sử dụng ĐTDĐ để truy cập vào các thông tin và tin tức trên internet tăng gấp hơn 2 lần tính từ 1/2008 tới 1/2009. Cũng theo thống kê, tổng số 63,2 triệu người sử dụng ĐTDĐ để truy cập vào các thông tin và tin tức trên mạng của tháng 1/2009 thì có tới 22,4 triệu người (chiếm 35%) truy cập hàng ngày. Con số này đã tăng lên gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng con số này ở Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều.
Một con số khác cũng khiến chúng ta phải "sốc", trong những tháng đầu năm ngoái và gần đây nhất là tháng 9 và 10/2008, số câu lệnh tìm kiếm chứa "sex" xuất phát từ các địa chỉ IP Việt Nam nhiều nhất trên trang thống kê Google Trends, đẩy Ai Cập, ấn Độ xuống hàng dưới. Theo thống kê lệnh search chứa "sex" năm 2007 cho tất cả các vùng trên Google Trends.
Trong các năm 2005-2006, Việt Nam chưa hề có tên trong top 10 của thống kê cho từ này. Nhưng kể từ tháng 1 năm nay, Việt Nam leo đến vị trí thứ 4, rồi thứ 3 (tháng 3, 4, 5, 6) và thứ nhất từ tháng 7 tới nay. Tháng 10 chứng kiến lượng tìm kiếm tăng vọt, trong đó Việt Nam xếp thứ nhất khối lãnh thổ, Hà Nội xếp thứ nhất khối thành phố.
Bên cạnh đó, trào lưu "Chat" đang thịnh hành ở Việt Nam cũng đứng ở ngôi vị số 1 thế giới. Ở các nước phát triển, việc "chat" đa số là trao đổi công việc, học tập và thông tin kết nối thì ở Việt Nam "chat" tào lao đang thịnh hành, trong đó có "chat" buôn chuyện, "chat" sex và "chat" vô bổ" (có lẽ cũng có thể khẳng định riêng việc này Việt Nam cũng đứng đầu thế giới).
Người dùng Internet đang tăng lên
Trong mấy năm gần đây, người sử dụng Internet ở Việt Nam đã tăng mạnh. Theo kết quả mà Yahoo và TNS Media Việt Nam đã thực hiện Net Index - một nghiên cứu chuyên sâu về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam. Cuộc nghiên cứu được thực hiện vào tháng 12/2008 và xử lý dữ liệu trong quý 1/2009, cho thấy: 42% dân số 4 thành phố lớn nhất Việt Nam sử dụng Internet trong tuần vừa qua; đối tượng sử dụng đa phần trẻ tuổi, từ 15 – 19 tuổi chiếm 80%; thời gian truy cập Internet bình quân tăng gấp đôi so với năm 2006 lên 43 phút/ngày (trong khi thời gian xem tivi giảm 21% xuống còn 223 phút/ngày)…
Trong 3 tháng trước thời điểm được phỏng vấn, 66% người truy cập Internet tại nhà - cho thấy hình thức sử dụng này đã bứt lên so với cách truy cập tại bên ngoài (như tiệm Net, quán cà phê là 53%). Tuy nhiên, thanh thiếu niên và người thu nhập thấp vẫn nghiêng về sử dụng Internet tại bên ngoài. Việc truy cập Internet trong 3 tháng qua ở trường học chiếm 12% và tại nơi làm việc chiếm 24%. Có 82% người sử dụng truy cập vào các công cụ tìm kiếm và cập nhật thông tin; gần 90% vào Internet để đọc tin tức mới.
(Kết quả cuộc đều tra về thói quen sử dụng Internet ở Việt Nam)
Đối với dịch vụ Internet, ngoài mặt tích cực của nó là trang bị kiến thức, cập nhật thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu học tập, ứng dụng vào trong lao động sản xuất... thì cũng không ít những hạn chế đó là: số lượng người khai thác các trang “web đen” còn nhiều; trách nhiệm cài đặt phần mềm quản lý của nhà cung cấp dịch vụ cho các cơ sở chưa tốt; tỉ lệ học sinh bỏ học vào những cơ sở chơi game online, chat ...cũng là vấn đề đáng quan tâm.
Hoạt động thông tin tuyên truyền trong những năm gần đây, do sự chi phối của các kênh thông tin, tivi kĩ thuật số, băng đĩa hình phong phú, đa dạng đặc biệt là hoạt động từ những dịch vụ Internet đã là những nổi lo của ngành chức năng, ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền qua các hình thức: đài, trạm; văn nghệ quần chúng..... Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa trong tình hình hiện nay là một việc làm vô cùng khó và phức tạp đối với ngành chuyên môn. Quản lý, kiểm tra các hoạt động trên lĩnh vực internet là vô cùng cần thiết. Trong những năm qua, do điều kiện kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu hưởng thụ, nhu cầu cập nhật thông tin qua internet trong quần chúng nhân dân cũng được mở rộng, nâng cao, nhiều cơ sở Internet phát triển mạnh. Quá trình hoạt động, đa số cơ sở thực hiện tốt mọi quy định của nhà nước, nhưng vẫn còn cơ sở vi phạm một số quy định của pháp luật hiện hành.
Thực trạng sử dụng Internet ở thanh thiếu niên Việt Nam
Internet có vẻ như đã trở thành một thứ rất quen thuộc đối với đông đảo thanh, thiếu niên, nhất là ở các thành phố lớn. Thế nhưng, sự quen thuộc đó liệu đã mang ý nghĩa tích cực như chúng ta nghĩ lẽ ra nó phải vậy? Vấn đề không phải chỉ một chiều từ phía những tác động xấu mà báo chí đã nói tới nhiều như các trang web đồi truỵ, tán gẫu khiêu dâm, ảnh khoả thân của những người nổi tiếng..., vấn đề cốt lõi là ở chỗ, TTN đang quá thiếu định hướng để biết và thấy cần khai thác những mặt tích cực của thế giới ảo ... Khách hàng ở các quán Internet đa phần là thanh thiếu niên. Họ dùng Internet để ... Tuyệt đại đa số khách hàng vào Internet để chat (tán gẫu), trong đó phần lớn sử dụng phần mềm Yahoo!Messenger (YM), số còn lại sử dụng các dịch vụ ICQ, AIM và các phòng chat công cộng. Đa số TTN VN sử dụng Internet để giải trí (trong đó có không ít các loại hình giải trí vô bổ, thậm chí độc hại), số ít phục vụ nhu cầu học tập, trau dồi kiến thức. Ai cũng có thể nhận thấy ở các quán café Internet, nơi các khách hàng ở độ tuổi đi học luôn chiếm đa số, những màn hình đọc tin, tìm kiếm thông tin trên mạng thật sự vô cùng hiếm hoi. Tự phát, thiếu định hướng và quá ít hiệu quả: Lợi bất cập hại? "Chẳng được ai hướng dẫn", đó là tình trạng chung của TTN hiện nay đối với CNTT nói chung và Internet nói riêng.
Ngày càng nhiều tệ nạn, văn hóa phẩm đồi trụy xuất phát từ hệ thống dịch vụ Internet. Hiện nay, những em học sinh cấp 1, cấp 2 đến các điểm Internet ngày càng nhiều. Các em này đến không chỉ để chat, để tìm hiểu thông tin trau dồi thêm kiến thức, mà truy cập vào những trang web xấu, bạo lực. Và hệ thống dịch vụ Internet này hoạt động với công suất lớn, lại khá gần trường học.
Bên cạnh đó còn có những hậu quả do game gây ra với thanh thiếu niên như: bỏ nhà, bỏ học, không ăn không ngủ vì "nghiện" game, chơi game sex, cờ bạc trá hình... thì những "tệ nạn" khác như: Lợi dụng game để phát tán virus máy tính, cài phần mềm để hack cơ sở dữ liệu, nạp tiền vào tài khoản game để gửi tin nhắn lừa đảo... bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật
Còn có các trò lừa đảo, khiêu khích, các trang web đen trên mạng, các trang web phản động khiêu khích chia rẽ đoàn kết trong nội bộ tổ chức và lớn hơn là quốc gia…
Trước những thực trạng đau lòng trên đáng để chúng ta phải suy nghĩ: Nguyên nhân là do đâu ?
Trước tình hình trên thì việc nâng cao ý thức và quản lý của nhà nước khi tham sử dụng internet của người dân đặc biệt là học sinh , sinh viên hiện nay là điều vô cùng cấp bách để từ đó tìm ra giải pháp để khắc phục và giáo dục, bồi dưỡng và nâng cao ý thức và mức độ quản lý của nhà nước khi sử dụng internet cho người dân.
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG
Quản lý, quản lý nhà nước về kinh tế, quản ký nhà nước về thương mại
Quản lý
- Tiếp cận thứ nhất : Quản lý là một quá trình, trong đó các chủ thể quản lý, tổ chức, điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa học và nghệ thuật vào khách thể quản lý nhàm đạt được kết quả tối ưu đã đề ra thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ thích hợp.
- Tiếp cận thứ hai : quản lý còn được hiểu là một hệ thống, bao gồm các thành tố đầu vào, đầu ra, qú trình biến đổi các yéu ttố đầu vào thành đầu ra, môi trường và mục tiêu. Một mặt chúng đặt ra các yêu cầu, những vấn đề quản lý phải giải quyết. Mặt khác chúng ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
Quản lý là một hiện tượng khách quan trong mọi hình thái kinh tế xã hội. no là sự tất yếu của lao động tập thể và các hoạt động mang tính cộng đồng xã hội. Ngày nay, nhận thức của con người về lợi ích và hiệu quả to lớn của quản lý trong nền kinh tế nói chung, cũng như trong thương mại nói riêng ngày cáng cao. Quản lý trở thành vấn đề quan trọng trong cải cách kinh tế của các quốc gia trên thế giới, và ở nước ta trong suốt hơn 20 năm đổi mới vừa qua cũng là thời kỳ tiến hành cải cách kinh tế vf thay đổi cơ chế quản lý trên cả tầm vĩ mô
Quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là quá trình tác động có ý thức và kiên tục, phù hợp với quy luật của các cơ quan quản lý nhà nước trên tâm vĩ mô đến các hoạt động kinh tế, các quá trình kinh tế nhằm tạo ra kết qủa theo mục tiêu xác định trong điều kiện môi trường luôn biến động.
Quản lý nhà nước về kinh tế còn được tiếp cận theo các lĩnh vực, các mặt cụ thể của quản lý. Đó là một hệ thống tổng thể bao gồm các yếu tố, mục tiêu, nội dung, phương pháp, nguyên tắc tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho quản lý, môi trường của hoạt động kinh tế…trong trường hợp này quảnlý nhà nước về kinh tế là sự tác động vào cả quá trình hoặc từng thành tố trong quá trình làm cho quá trình vận động tới muc tiêu
Để thực hiện công tác quản lý, cơ quan quản lý nhà nước phải hoạch định các chiến lược, các quy hoạch và các kế hoạch phát triển kinh tế, tổ chức, và phối hợp theo cấp ngành trong quản lý, điều hành kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động các quá trình kinh tế đảm bảo phát triển đúng hướng, đạt mục tiêu.
Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại là một bột phận hợp thành của quản lý nhà nước về kinh tế, đó là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý trên tầm vĩ mô về thương mại các cấp đến hệ thống bị quản lý thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện môi trường xác định
Quản lý nhà nước về thương mại bao giờ cũng là một quá trinhg thực hiện và phối hợp bốn loại chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiẻm saót của các cơ quan quản lý vĩ mô các cấp.
Các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước về thương mại là người ra quyết định, người tổ chức, điều hành và tác động tới các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân tiến hành các hoạt động thương mại trong phạm vi thị trường cả nước, thị trường từng địa phương cũng như thị trường ngoài nước theo phạm vi phân công, phân cấp quản lý.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều kiện quản lý thương mại thông qua ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa, chính sách, luật pháp và các quy định khác về thương mại để tác động tới các chủ thể người bán và người mua trên thị trường. sự tác động của hệ thống quản lý nhà nước về thương mại đến từng đối tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan hệ với môi trườgn cụ thể, xác định trong từng thời kì
Khái niệm internet, quản lý nhà nước về internet
Khái niệm về internet
Internet là một tập hợp các máy tính được nối vơi nhau và chủ yếu là qua đường điện thoại trên toàn thế giới với mục đích là trao đổi và chia sẻ thông tin. Internet chứa đựng một lượng thông tin khổng lồ bao gồm rất nhiều các chủ đề. Nó chứa đựng các dnh mục của các thư viện, bài báo, mẫu tin, báo cáo, hình ảnh âm thanh, thông tin tham khảo, thông tin công ty và ý kiến cá nhân. Trước đây mạng internet được sử dụng chủ yếu trong các tổ chức chính phủ và các trường học. Ngày nay, mạng internet được sử dụng bởi hàng tỷ người bao gồm các cá nhân doanh nghiệp lớn nhỏ, trường học…
Tài nguyên Internet bao gồm hệ thống các tên và số dùng cho Internet, được ấn định thống nhất trên phạm vi toàn cầu. ở Việt Nam, tài nguyên Internet là một phần của tài nguyên thông tin quốc gia cần được quản lý, quy hoạch và sử dụng có hiệu quả
Khái niệm quản lý nhà nước về internet
Là quá trình tác động liên tục và phù hợp với các vơ quan quản lý nhà nước trong mạng internet bằng các công cụ chính sách cụ thể để phát triển hệ thống mạng Internet bằng các công cụ và chính sách cụ thể để phát triển hệ thống mạng Internet theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra như điều kiện quán nét, các quy định cho các cá nhân hay các doanh nghiệp khi sử dung mạng Internet, hay xử phạt nghiêm khắc các trường hợp vi phạm
3. Các khái niệm khác liên quan
3.1. Dịch vụ truy nhập Internet là dịch vụ cung cấp cho người sử dụng khả năng truy nhập đến Internet.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet (ISP) là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, được Tổng cục Bưu điện cấp giấy phép cung cấp dịch vụ truy nhập Internet. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập Internet phải tuân theo các quy định của Nghị định này và các quy định về quản lý dịch vụ truy nhập Internet do Tổng cục Bưu điện ban hành.
3.2. Dịch vụ kết nối Internet là dịch vụ cung cấp cho các đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet khả năng kết nối với nhau và với Internet quốc tế.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) là doanh nghiệp nhà nước, hoặc công ty cổ phần mà Nhà nước chiếm cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt, được Tổng cục Bưu điện cấp giấy phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối Internet phải tuân theo các quy định của Nghị định này và các quy định về quản lý dịch vụ kết nối Internet do Tổng cục Bưu điện ban hành.
3.3. Dịch vụ ứng dụng Internet là dịch vụ sử dụng Internet để cung cấp cho người sử dụng các ứng dụng hoặc dịch vụ bao gồm : bưu chính, viễn thông, thông tin, văn hoá, thương mại, ngân hàng, tài chính, y tế, giáo dục, đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và các dịch vụ khác trên Internet.
Dịch vụ thông tin Internet là một loại hình dịch vụ ứng dụng Internet bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo nói, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên Internet và dịch vụ cung cấp các loại hình tin tức điện tử khác trên Internet.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet (OSP) là doanh nghiệp sử dụng Internet để cung cấp các dịch vụ ứng dụng Internet cho người sử dụng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet ngoài việc chấp hành các quy định của Nghị định này, phải tuân theo các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước chuyên ngành.
3.4 Băng thông
Băng thông là độ rộng của một dải tần số điện từ, đại diện cho tốc độ truyền dữ liệu của một đường truyền, hay, chuyên môn một chút, là độ rộng (width) của một dải tần số mà các tính hiệu điện tử chiếm giữ trên một phương tiện truyền dẫn, đồng nghĩa với số lượng dữ liệu được truyền trên một đơn vị thời gian. Bandwidth cũng đồng nghĩa với độ phức tạp của dữ liệu đối với khả năng của hệ thống
3.5 Đại lý Internet, người sử dụng internet
Đại lý Internet là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam nhân danh doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng Internet để cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng Internet cho người sử dụng thông qua hợp đồng đại lý và hưởng thù lao có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho người sử dụng dịch vụ theo đúng các quy định về loại hình, chất lượng và giá, cước dịch vụ đã thoả thuận trong hợp đồng đại lý ký với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và thực hiện các quy định về quản lý dịch vụ Internet do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành.
Người sử dụng dịch vụ Internet là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam sử dụng dịch vụ Internet thông qua việc giao kết hợp đồng với đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet.
.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ INTERNET
Quản lý, kiểm soát thông tin, dịch vụ và các hoạt động cung cấp dịch vụ internet
Thực trạng
Việt Nam chính thức có chính sách quản lý, kiểm soát và phát triển Internet từ 1997. Hiện nay, các chính sách quản lý Internet bao gồm: Nghị định số 55/2001-NĐ-CP (thay Nghị định 21-CP); Thông tư số 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, và dịch vụ kết nối; Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT Bộ Văn hoá Thông tin về quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet; Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA (A11) về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, sử dụng Internet tại VN
Theo thống kê, hiện nay trên thế giới đã có hàng tỷ các website và số lượng các website đang tăng lên từng ngày. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT cho phép việc cung cấp thông tin lên Internet được "toàn cầu hóa" hoàn toàn. Bên cạnh những trang tin có nội dung tốt, là kho kiến thức vô tận cung cấp cho người dùng một cách hữu ích thì cũng có không ít các website có nội dung khiêu dâm, đồi truỵ, phản động, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Văn hoá Thông tin thì phải có đến hàng nghìn website loại này mà chủ yếu là các website của nước ngoài, trang web của một số Việt kiều xây dựng nhằm mục đích xấu. Thực trạng này đặt ra một nhiệm vụ nặng nề cho các nhà quản lý. Vào quý II/2002, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Thanh tra Bộ Văn hoá Thông tin đã có cuộc kiểm tra việc kinh doanh và sử dụng Internet tại 5 thành phố lớn (Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ và Hải Phòng), kết quả 100% đại lý Internet