Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là một trong những hoạt
động truyền thống và quan trọng, hoạt động này ngoài việc mang lại lợi nhuận
từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, các chi phí hoạt
động . thì cũng là một trong những nhân tố góp phần để thu hút khách hàng
sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng chứa đựng rất
nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng nếu xảy ra việc khách hàng
không trả nợ cho ngân hàng. Chỉ cần một khách hàng mất khả năng trả nợ thì
bao nhiêu công sức, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị xóa bỏ một cách nhanh
chóng, nếu đây là khoản vay lớn thì nó còn có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình
tài chính và danh tiếng của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh
về cả số lượng và quy mô hoạt động, sức cạnh tranh trên thị trường tài chính
Việt Nam giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các
ngân hàng thương mại trong quá trình kinh doanh. Trong áp lực cạnh tranh
ấy Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB ) đã và đang có những bước
chuyển mình để có thể cạnh tranh và tồn tại trong môi trường ngày càng khắc
nghiệt ấy. Trong bước phát triển của mình ACB luôn coi quản lý rủi ro là một
công tác cực kỳ quan trọng và quản lý rủi ro tín dụng là một thành phần cần
được lưu ý nhất vì hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, có thể gây ra
tổn thất lớn cho Ngân hàng về tài chính và uy tín. Chính vì vậy, việc xây dựng
một hệ thống quản lý tín dụng hiệu quả cho ngân hàng thương mại là một công
tác rất thiết thực nhằm giúp cho các ngân hàng có thể có khả năng phòng
chống rủi ro trong hoạt động tín dụng mà nguyên nhân của nó ngày càng trở
nên đa dạng và khó lường.
62 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4939 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ACB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại là một trong những hoạt
động truyền thống và quan trọng, hoạt động này ngoài việc mang lại lợi nhuận
từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, các chi phí hoạt
động…. thì cũng là một trong những nhân tố góp phần để thu hút khách hàng
sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này cũng chứa đựng rất
nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn cho ngân hàng nếu xảy ra việc khách hàng
không trả nợ cho ngân hàng. Chỉ cần một khách hàng mất khả năng trả nợ thì
bao nhiêu công sức, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị xóa bỏ một cách nhanh
chóng, nếu đây là khoản vay lớn thì nó còn có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình
tài chính và danh tiếng của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh
về cả số lượng và quy mô hoạt động, sức cạnh tranh trên thị trường tài chính
Việt Nam giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các
ngân hàng thương mại trong quá trình kinh doanh. Trong áp lực cạnh tranh
ấy Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB ) đã và đang có những bước
chuyển mình để có thể cạnh tranh và tồn tại trong môi trường ngày càng khắc
nghiệt ấy. Trong bước phát triển của mình ACB luôn coi quản lý rủi ro là một
công tác cực kỳ quan trọng và quản lý rủi ro tín dụng là một thành phần cần
được lưu ý nhất vì hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi ro, có thể gây ra
tổn thất lớn cho Ngân hàng về tài chính và uy tín. Chính vì vậy, việc xây dựng
một hệ thống quản lý tín dụng hiệu quả cho ngân hàng thương mại là một công
tác rất thiết thực nhằm giúp cho các ngân hàng có thể có khả năng phòng
chống rủi ro trong hoạt động tín dụng mà nguyên nhân của nó ngày càng trở
nên đa dạng và khó lường.
Thông qua đề tài:”Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu (ACB )” em muốn mọi người có thể thấy được cách mà ACB đã
áp dụng để quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng mình như thế nào.
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
2
Chương 1
Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
ngân hàng
1.1 Hoạt động tín dụng
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên
cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín
dụng đối với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước) thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Tổ chức Tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục
đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi.”
Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp
thứ hai thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 10 năm 1998 thì “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín
dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng”
Căn cứ theo Điều 49 của Luật này về “Cấp tín dụng” thì Tổ chức tín dụng
được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính
và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1.1.2 Bản chất
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
3
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng
hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa
trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là
tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản
trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích
của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
lưu động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục
đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
4
chia thành các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho
tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào
khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách
hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp
đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và
khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong
một khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín
dụng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số
tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh
toán như là: Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.
1.2 Rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn cho ngân hàng.
Căn cứ vào khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
5
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng (Ban hành theo Quyết định số 493 /2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện
hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra
trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá,
cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro
liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân
chia thành các loại sau:
- Rủi ro giao dịch (Transaction rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng
mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét
duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là
rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân
tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu
quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình
thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và
kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục (Porfolio rish): là một hình thức của rủi ro tín
dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
6
cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại
(Intrinsic rish) và rủi ro tập trung (Concentration rish).
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách
hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng
địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3 Nguyên nhân
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân
hàng thương mại nhưng đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn
chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi
ro tín dụng là thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải
pháp cần thiết để hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất.
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp
tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả
được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân
từ nhiều phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường
bên ngoài.
1.2.3.1 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng nhất
quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho
vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền
vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn,…
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ
bản dưới đây:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích
và đánh giá khách hàng,… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án
xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
7
án kinh doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát
hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo
chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng
khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh
doanh của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý
hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm
địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ
tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh
toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn
nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn;
hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo
quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến
chất lượng khoản vay.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng
quản lý. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh
doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
8
nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh
doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra
quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương
án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng
tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây
chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết
các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác,
rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp
cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực
chất. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh
nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế
và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì
nhà nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
1.2.3.3 Nguyên nhân khách quan
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây
tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
Bởi vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và
nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và
giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu. Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển
cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới,
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
9
cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà
kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các
doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp
này.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động ngân
hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều bất cập.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước. Bên
cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm
bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán
bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; nội dung và phương pháp
thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới; vai trò kiểm toán chưa được
phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra
tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền
tệ và giám sát rủi ro còn yếu;…
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm thông tin tín dụng
ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên và đã
đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông
tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật
liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó
khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và nền kinh tế xã hội
1.2.4.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã
SVTH: Nguyễn Văn Hiếu GVHD:TS. Nguyễn Trung Trực
10
cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu
chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu
quả, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử dụng
các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực nào
đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân hàng
sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp rủi
ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài
chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội
địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng
xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không
có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
1.2.4.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian
tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức,
các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu
những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi
vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà
quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở
các