Quản lí tài nguyên ven biển là cơsở đểphát triển bền vững và góp phần giải
quyết những vấn đềxã hội của lãnh thổ. Nếu quản lí tài nguyên không tốt có thểgây ra
những xung đột trong sửdụng tài nguyên và phát triển lên thành xung đột trong xã hội. Ở
dải ven biển có những hệsinh thái cho năng suất cao, đa dạng nhưng cũng rất nhạy cảm
và dễbịtổn thương. Đây lại là nơi tập trung đông dân cư, tập trung các hoạt động kinh tế
đa dạng. Trong điều kiện phát triển nền kinh tếmởvà khảnăng chinh phục biển ngày
càng lớn, đây là khu vực đang thu hút rất mạnh đầu tư, cơcấu kinh tếchuyển dịch rõ nét,
ngày càng phức tạp, nền kinh tếphát triển năng động nhưng cũng tiềm ẩn những yếu tố
không chắc chắn; chính vì vậy vấn đềquản lí tổng hợp tài nguyên dải ven biển đang được
đặc biệt quan tâm ởtrên thếgiới và ởnước ta.
ỞViệt Nam, tỉlệ đói nghèo ởdải ven biển thấp hơn so với vùng núi nhưng do tập
trung đông dân cưnên đây lại là nơi tập trung sốngười nghèo. Mặt khác trong thực tiễn
nhiều khi sựphát triển nhanh của kinh tếlại làm tăng sựbất bình đẳng xã hội. Hơn nữa,
vấn đềnghèo đói trong các cộng đồng nghềcá lại có màu sắc riêng. Tình trạng nghèo đói
của ngưdân sẽ ảnh hưởng rất xấu tới việc khai thác tài nguyên biển, nhất là vùng nước
ven bờ. Vì vậy trong bài báo này chúng tôi sẽphân tích những vấn đềvềquản lí tài
nguyên biển và vấn đềxóa đói giảm nghèo của cộng đồng nghềcá qua nghiên cứu nhiều
năm ởtỉnh Khánh Hòa
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quản lý tài nguyên ven biển và vấn đề xóa đói giảm nghèo trong các cộng đồng nghề cá ở tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Quản lý tài nguyên ven biển và vấn đề xóa đói giảm nghèo trong
các cộng đồng nghề cá ở tỉnh Khánh Hòa (1)
Đỗ Thị Minh Đức
Khoa Địa lí, ĐHSP Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Quản lí tài nguyên ven biển là cơ sở để phát triển bền vững và góp phần giải
quyết những vấn đề xã hội của lãnh thổ. Nếu quản lí tài nguyên không tốt có thể gây ra
những xung đột trong sử dụng tài nguyên và phát triển lên thành xung đột trong xã hội. Ở
dải ven biển có những hệ sinh thái cho năng suất cao, đa dạng nhưng cũng rất nhạy cảm
và dễ bị tổn thương. Đây lại là nơi tập trung đông dân cư, tập trung các hoạt động kinh tế
đa dạng. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế mở và khả năng chinh phục biển ngày
càng lớn, đây là khu vực đang thu hút rất mạnh đầu tư, cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ nét,
ngày càng phức tạp, nền kinh tế phát triển năng động nhưng cũng tiềm ẩn những yếu tố
không chắc chắn; chính vì vậy vấn đề quản lí tổng hợp tài nguyên dải ven biển đang được
đặc biệt quan tâm ở trên thế giới và ở nước ta.
Ở Việt Nam, tỉ lệ đói nghèo ở dải ven biển thấp hơn so với vùng núi nhưng do tập
trung đông dân cư nên đây lại là nơi tập trung số người nghèo. Mặt khác trong thực tiễn
nhiều khi sự phát triển nhanh của kinh tế lại làm tăng sự bất bình đẳng xã hội. Hơn nữa,
vấn đề nghèo đói trong các cộng đồng nghề cá lại có màu sắc riêng. Tình trạng nghèo đói
của ngư dân sẽ ảnh hưởng rất xấu tới việc khai thác tài nguyên biển, nhất là vùng nước
ven bờ. Vì vậy trong bài báo này chúng tôi sẽ phân tích những vấn đề về quản lí tài
nguyên biển và vấn đề xóa đói giảm nghèo của cộng đồng nghề cá qua nghiên cứu nhiều
năm ở tỉnh Khánh Hòa.
2. Khung lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu này
Nghề cá gắn liền với việc khai thác nguồn lợi sinh vật biển. Vấn đề nghèo đói
trong cộng đồng nghề cá gắn bó chặt chẽ với các đặc điểm của nghề khai thác cá biển,
đặc điểm nguồn lợi, điều kiện khai thác, các rủi ro có thể gặp phải do thiên tai, những hạn
chế do thiếu nguồn lực (nhân lực, tài chính, kĩ thuật), sức ép cạnh tranh của các hoạt động
kinh tế khác có liên quan đến khai thác tài nguyên biển. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế
nghề cá và tạo ra các sinh kế thay thế cho ngư dân gắn liền với việc nâng cao hiệu quả
khai thác nguồn lợi, khắc phục những khó khăn về tự nhiên và hạn chế về kinh tế - xã
hội. Vì vậy, khung lí thuyết về nghiên cứu quản lí tài nguyên ven biển và vấn đề nghèo
đói trong cộng đồng nghề cá có thể sử dụng quan điểm tương tự như trong mô hình
DPSIR(2). Mô hình DPSIR được Cơ quan môi trường châu Âu (EEA) chấp nhận làm
1 Bài báo này được phát triển từ báo cáo khoa học mà tác giả đã trình bày tại Hội thảo Địa lí quốc tế
(Brisbane, Australia, 6/2006). Đây là kết quả nghiên cứu của tác giả trong khuôn khổ Dự án nghiên cứu
chung giữa ĐHSP Hà Nội và Viện nghiên cứu đô thị và vùng Nauy (NIBR) "Sự phát triển vùng, quản lí tài
nguyên ven biển và việc xóa đói giảm nghèo ởViệt Nam".
2 DPSIR: Driving Forces, Pressure, State, Impacts, Responses, dịch là: Lực tác động, Áp lực, Hiện trạng,
Tác động và sự Ứng xử của xã hội
2
khung lí thuyết nhân quả để nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa xã hội và môi trường,
nhờ thế mô hình này được phát triển để nghiên cứu các vấn đề phức tạp liên quan đến
quản lí tổng hợp tài nguyên. Chúng tôi đã thử phác họa quan điểm này trong nghiên cứu
vấn đề nghèo đói ở cộng đồng nghề cá và quản lí tài nguyên. Do tính chất biện chứng
trong quan hệ giữa các hợp phần của hệ thống, nên những mối quan hệ, tác động qua lại
này làm cho hệ thống không ngừng biến đổi, và xã hội phải không ngừng tìm ra các sự
ứng xử thông minh và phù hợp.
Hình 1 - Mô hình DPSIR áp dụng cho nghiên cứu vấn đề
quản lí tài nguyên và nghèo đói ở cộng đồng nghề cá
Trong địa lí kinh tế - xã hội, các nhà địa lí xô viết trước đây đã phát triển các
chuỗi (các chu trình) sản xuất - năng lượng (N.N. Koloxovsky, Yu.G. Xauskin, A.T.
Khrutsov...) và các "cây nguyên liệu". Các mô hình này đã mô tả được các hình thức tổ
chức sản xuất trên quan điểm sử dụng tổng hợp tài nguyên và dựa trên những công nghệ
xác định. Gần đây, nhằm nghiên cứu việc quản lí nghề cá tổng hợp, các chuyên gia của
mạng lưới Quản lí nghề cá (FISHGOVNET) do Trung tâm Nghiên cứu biển (MARE) của
Hà Lan làm cơ quan điều phối đã sử dụng quan niệm Chuỗi thủy sản (Fish chain) để mô
tả ba mắt xích lớn (ba tiểu hệ thống) tương ứng với ba pha chuyển dịch của sản phẩm
nghề cá từ hệ sinh thái thủy sinh đến bàn ăn của người tiêu dùng (xem hình 2). Quan
niệm này có phần nào gần gũi với quan niệm của các nhà địa lí xô viết đã nêu ở trên,
nhưng nhấn mạnh quan hệ giữa hệ sinh thái, sản xuất, phân phối và tiêu thụ thuỷ sản, cả
trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
Lực tác động (D)
- (về mặt) Môi trường
- (về mặt) Nhân khẩu học
- Đầu tư
- Cạnh tranh từ các hoạt động
kinh tế khác
Áp lực (P)
- Các lựa chọn về sinh kế
- Mức sống
- Lợi nhuận từ nghề cá
- Sự chuyển cư của con người
Hiện trạng (S)
- Đội tàu cá và ngư cụ
- Nuôi trồng thủy sản (nuôi
lồng bè, ao đầm)
- Thu nhập của hộ gia đình
- Các vấn đề phát triển xã hội
Sự ứng xử của xã hội (R)
- Quy hoạch
- Kế hoạch hóa gia đình
- Chính sách đầu tư
- Các chương trình tạo việc làm
Tác động (hậu quả) (I)
- Đánh bắt quá mức
- Sự suy thoái và ô nhiễm môi
trường
- Nghèo đói
3
Hình 2 - Chuỗi thủy sản [3 ] với các mắt xích lớn
Mỗi một mắt xích của hệ thống là một hệ thống con, có đặc tính và quy luật hoạt
động riêng. Nhưng ở bất cứ hệ thống con nào, ta đều thấy sự hiện diện của con người và
sự can thiệp của con người. Chính các quan hệ xã hội quy định quan hệ của con người
với tự nhiên và con người với con người. Các tác giả của "chuỗi thủy sản" cho rằng ở
đây, các mối quan tâm chính là sức khỏe hệ sinh thái, công bằng xã hội, sinh kế và việc
làm, an ninh thực phẩm và an toàn thực phẩm. Và như vậy, chúng ta có thể áp dụng
khung lí thuyết này trong nghiên cứu các vấn đề đói nghèo ở các cộng đồng nghề cá và
việc quản lí tổng hợp tài nguyên.
3. Phân tích vấn đề quản lí tổng hợp tài nguyên vùng ven biển tỉnh
Khánh Hòa
Khánh Hòa là tỉnh có thế mạnh nổi bật về kinh tế biển. Do có các mạch núi ăn lan
ra biển, nên từ phía Bắc xuống phía Nam, có các bán đảo và các đảo ven bờ chắn gió, tạo
nên các vũng vịnh như Vịnh Vân Phong, Đầm Nha Phu, Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam
Ranh(3). Khánh Hoà có thềm lục địa và vùng lãnh hải rộng lớn với gần 40 đảo lớn nhỏ
nằm rải rác trên biển, trong đó có quần đảo Trường Sa. Đây là những địa bàn rất thuận
lợi cho sự tập trung các hoạt động kinh tế như du lịch biển, nuôi hải sản nước mặn (nuôi
biển), đóng tầu, cảng biển. Những bãi biển tốt cho phát triển du lịch như bãi biển Đại
Lãnh, Dốc Lết, Đầm Môn, Bãi Tiên, Bãi Sạn, bãi Dài Cam Ranh. Có 8 cửa sông, cửa lạch
thuận lợi cho neo đậu các tàu thuyền đánh cá và phân bố các làng cá, các khu vực dịch vụ
hậu cần nghề cá.
Khí hậu Khánh Hòa mang đặc điểm tiêu biểu của khí hậu Nam Trung Bộ, rất
thuận lợi cho phát triển du lịch, nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, Khánh Hòa rất hiếm khi bị
bão đổ bộ vào đất liền.
Tài nguyên biển- tiền đề cho việc khai thác và nuôi trồng thủy sản rất dễ bị cạn
kiệt, ô nhiễm và thường bị cạnh tranh (mâu thuẫn) với các mục đích khai thác kinh tế
khác như du lịch, phát triển đô thị, cảng biển, khai thác khoáng sản...Điều này rất rõ ở
Khánh Hòa.
3 Tính từ Bắc xuống Nam, theo đường chim bay, thì bờ biển Khánh Hòa là 116 km, nhưng do bờ biển khúc
khủy, nên chiều dài bờ biển thực tế là 385 km.
4
Dân số của Khánh Hoà năm 2006 là 1135 nghìn người, mật độ dân số trung bình
toàn tỉnh là 218 người/km2. Dân số phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở một dải hẹp
ven biển, nhất là ở thành phố Nha Trang và thị xã Cam Ranh (gần 50% dân số). Trong
mấy chục năm trở lại đây, Khánh Hòa - đặc biệt là Thành phố Nha Trang và vùng phụ
cận - là địa bàn thu hút dân nhập cư. Trong các cộng đồng nghề cá, những người nhập cư
đến từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên và họ đã sớm hòa đồng vào với cộng
đồng người địa phương. Trong những năm gần đây, một bộ phận ngư dân nghèo từ các
tỉnh Bắc Trung Bộ di chuyển đến Khánh Hòa làm thuê cho các chủ tầu.
Khánh Hòa trong những năm gần đây là địa bàn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài
và các nguồn đầu tư trong nước. Tỉnh Khánh Hòa đang từng bước thực hiện Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 [7]. Nhà máy đóng tàu Hyundai-
Vinashin ở bán đào Hòn Khói, ở TX Cam Ranh, các dự án phát triển du lịch ở vùng vịnh
Nha Trang, đặc biệt là khu du lịch VinPearl (trên đảo Hòn Tre), dự án xây dựng cảng
Đầm Môn ở vịnh Vân Phong. Các dự án lớn xây dựng các nhà máy đóng tầu đã làm mất
đi các diện tích lớn đầm nuôi tôm và sự hoạt động của các nhà máy đóng tầu còn đe dọa
gây ô nhiễm môi trường nước, môi trường đất và ảnh hưởng xấu đến nghề nuôi (cả nuôi
đầm và nuôi lồng bè trên biển). Việc phát triển du lịch đi đôi với bảo tồn vẻ đẹp vịnh Nha
Trang đã buộc 800 lồng nuôi tôm hùm ở Vũng Me phải di dời; các ngư dân không được
đánh cá ở khu vực Hòn Mun, nơi xây dựng khu bảo tồn biển, trước đây là ngư trường
chính của ngư dân các đảo quanh đó. Việc quy hoạch lại TP Nha Trang cũng đã dẫn đến
sự di chuyển hàng trăm gia đình ở Xóm Bóng (phía Bắc thành phố) xuống khu Hòn Rớ
(phường Vĩnh Trường, phía Nam thành phố). Cư dân Hòn Tre cũng phải chuyển đi các
địa phương khác và phần đông trong số họ cũng phải chuyển đổi nghề nghiệp.
Đặc điểm tài nguyên biển, điều kiện đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, các cộng
đồng nghề cá với các truyền thống và tập quán được hình thành và biến đổi trong thời
gian dài, những tác động mạnh mẽ nhưng rõ nét trong tổ chức sản xuất của nghề cá, từ
sau khi các HTX nghề cá kiểu cũ bị tan rã (cuối thập kỉ 80 của thế kỉ trước) và sự phát
triển của kinh tế tư nhân, vai trò của thị trường xuất khẩu thủy sản..., tất cả đã và đang tạo
ra "chuỗi thủy sản "mới của nghề cá Khánh Hòa.
4. Thực trạng đói nghèo và việc tạo sinh kế mới ở các cộng đồng
nghề cá tỉnh Khánh Hòa
a) Bức tranh chung:
Khánh Hòa là một tỉnh đã thực hiện rất có hiệu quả Chương trình mục tiêu xóa
đói giảm nghèo 2001-2005. Theo đánh giá của UBND tỉnh Khánh Hòa [10] tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm từ 11,14% đầu năm 2001 xuống còn 2,94% cuối năm 2004 (dự kiến đến
cuối năm 2005 xuống còn dưới 1,5%). Tuy nhiên, theo đánh giá của báo cáo này, thì các
chuẩn nghèo cũ là thấp so với thực tế và các hộ mới "thoát chuẩn nghèo" chứ chưa thực
sự thoát nghèo. Chính vì vậy, sau khi Nhà nước xác định chuẩn nghèo mới cho giai đoạn
2006-2010 (4), tỉnh Khánh Hòa đã đề xuất chuẩn nghèo riêng của tỉnh (5).
4 Theo chuẩn nghèo mới của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2006-2010, thì ở khu vực nông thôn, miền
núi và hải đảo là 200.000đ/người/tháng, còn ở khu vực thành thị là 260.000 đ/người/tháng.
5 Theo Nghị quyết số 21/2004/NQ- HĐND4 của Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa, chuẩn nghèo mới của
tỉnh Khánh Hòa áp dụng từ năm 2005 gồm 03 mức:
5
Bảng 1. Số hộ nghèo và tỉ lệ nghèo theo chuẩn mới của quốc gia
và chuẩn của tỉnh Khánh Hòa (thời điểm điểu tra 1/1/2005)
Chuẩn nghèo mới
quốc gia
Chuẩn nghèo tỉnh
Đơn vị hành chính Tổng số hộ Số hộ
nghèo
Tỷ lệ
%
Số hộ
nghèo
Tỷ lệ
%
TOÀN TỈNH 216.891 32.954 15,19 38.874 17,92
TP Nha Trang 66.034 6.303 9,55 8.527 12,91
TX Cam Ranh 43.535 7.164 16,46 8.230 18,90
H. Vạn Ninh 25.138 3.255 12,95 4.127 16,42
H. Ninh Hòa 44.044 6.785 15,41 7.766 17,63
H. Diên Khánh 28.262 3.451 12,21 4.228 14,96
H. Khánh Vĩnh 5.918 3.563 60,21 3.563 60,21
H. Khánh Sơn 3.960 2.433 61,44 2.433 61,44
Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Khánh Hòa.
Bảng trên cho thấy, mặc dù tỉ lệ hộ nghèo rất cao ở các huyện miền núi Khánh
Vĩnh và Khánh Sơn, nhưng do dân cư tập trung ở đô thị và ở các vùng ven biển, nên các
địa bàn này cũng là nơi tập trung đông các hộ nghèo, và tỉ lệ nghèo khá cao ở các huyện,
thị ven biển: TP Nha Trang, TX Cam Ranh, Ninh Hòa, Vạn Ninh. Góp phần vào bức
tranh về tình trạng nghèo này có các hộ gia đình nghề cá và các cộng đồng nghề cá.
Trong vùng ven biển, thì tỉ lệ nghèo thuộc về các hộ nghề cá là rất lớn. Các con số
thống kê chính thức hiện nay chưa phản ánh rõ, do không thể áp dụng chuẩn nghèo ở khu
vực nông thôn (cho nông dân) vào các hộ ngư dân do các hộ ngư dân thường không có
đất, đầu tư và tính bấp bênh đều lớn hơn nhiều.
b) Trong cộng đồng nghề cá
Cộng đồng nghề cá do đặc điểm nghề nghiệp và sự củng cố các quan hệ "làng xã"
trong lịch sử, có tính cố kết khá mạnh và không "mở". Rất phổ biến ở tỉnh Khánh Hòa là
các cộng đồng (các vạn chài, làng chài) gắn với một vùng nước và một nhóm nghề (làng
làm nghề giã cào, làng làm nghề câu tay, làng làm nghề vây...). Ngay bên cạnh một thành
phố Nha Trang, một thành phố du lịch tương đối lớn và phát triển năng động, thì các làng
cá vẫn có dáng dấp cổ truyền rất riêng.
Bên trong cộng đồng nghề cá có các hệ thống phân công lao động riêng, có những
chủ tàu, người làm thuê (đi bạn), người buôn bán cá (nậu), người cung cấp các dịch vụ
liên quan. Cách thức phân chia thu nhập (giữa chủ tàu và những người làm thuê) khác
nhau nhiều giữa các nhóm nghề. Thường thường với các tàu nhỏ, sau khi trừ các chi phí
- Khu vực thành thị: 300.000 đồng/người/tháng - 3.600.000 đồng/người/năm
- Khu vực nông thôn đồng bằng: 250.000 đ/người/tháng - 3.000.000 đ/người/năm
- Khu vực nông thôn miền núi: 200.000 đ/người/tháng - 2.400.000 đ/người/năm
6
bao gồm dầu chạy máy, đá ướp cá, lương thực, thực phẩm, tiền bán sản phẩm một nửa
dành cho chủ (bao gồm tiền khấu hao tầu thuyền, ngư cụ mà ngư dân gọi là "lương của
tầu"); phần còn lại chia cho các lao động trên tàu theo hệ số, tùy theo vị trí của họ (thuyền
trưởng, máy trưởng, thuyền viên...). Với các tàu lớn, lưới nhiều, tiền thu được trừ lại cho
tàu và lưới có thể lên tới 60-70 %, phần chia cho lao động còn 30-40%. Điều ấy cũng có
nghĩa là mặc dù làm thuê, người lao động vẫn phải chịu rủi ro theo từng chuyến biển.
Người làm thuê có thể tự lựa chọn chủ tàu nào để làm, ngắn hạn hoặc lâu dài. Ở Khánh
Hòa, do số lượng tàu thuyền vẫn tăng mà khan hiếm người làm thuê, chủ tàu đôi khi phải
thuê cả người không biết đi biển. Đáng chú ý là ngay cả ngư dân nghèo, thuyền cá nhỏ
đôi khi vẫn phải thuê lao động, và hầu như không có trường hợp phụ nữ ra biển cùng với
chồng.
Cộng đồng ngư dân được sự quan tâm nhiều của Nhà nước thông qua các Chương
trình như chương trình vay vốn tạo việc làm, chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nghề
cá, chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình hỗ trợ cho các xã bãi ngang, chương trình
hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản... Điều này đã góp phần to lớn để thúc đẩy sản xuất phát
triển, cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, khi các đơn vị quốc doanh còn ngập ngừng phát triển dịch vụ nghề cá
nhỏ, vốn dĩ gặp nhiều rủi ro, thì trong cộng đồng ngư dân tồn tại một "hệ thống" tiêu thụ
sản phẩm, đầu tư cho ngư dân sản xuất rất sống động - mạng lưới nậu. "Hệ thống" này tác
động tới phần đông các ngư dân từ khâu đầu tới khâu cuối của sản xuất và cả tiêu thụ sản
phẩm, thậm chí có nậu sở hữu cả xưởng chế biến thủy sản. Nậu thường đầu tư cho ngư
dân vay vốn không lấy lãi, bù lại, ngư dân nhận vay phải bán sản phẩm với giá "mềm "
hơn cho nậu. Đây là hình thức "tín dụng" khá đặc biệt của cộng đồng nghề cá.
Nhiều tranh cãi về vai trò của nậu trong phát triển nghề cá: có ý kiến cho là đây là
hình thức bóc lột tinh vi và nậu mới là người điều khiển hệ thống tiêu thụ sản phẩm chứ
không phải Nhà nước. Chúng tôi cho là, khi mà Nhà nước chưa đầu tư được nhiều cho
ngư dân, trong khi ngư dân rất cần vốn thì sự tồn tại của các nậu,vựa là tất yếu. Việc tiêu
thụ sản phẩm thủy sản là sản phẩm tươi sống trong điều kiện khí hậu nhiệt đới cần một
mạng lưới rộng, linh hoạt như của nậu là vô cùng cần thiết. Tại Khánh Hòa, ta có thể
quan sát sự hoạt động mạnh mẽ của hệ thống này tại Nha Trang và Cam Ranh.
Để đấu tranh xóa đói giảm nghèo, việc tạo ra các sinh kế thay thế có tầm quan
trọng hàng đầu. Ta có thể thấy các cách lựa chọn khác nhau ở các cộng đồng nghề cá, gắn
với các điều kiện riêng về địa lí, kinh tế. Chúng tôi xin phân tích vấn đề này ở cộng đồng
nghề cá ở TP Nha Trang và huyện Ninh Hòa.
Cộng đồng nghề cá ở TP Nha Trang tiêu biểu cho các cộng đồng nghề cá khai
thác xa bờ (tập trung chủ yếu ở Nha Trang và một phần ở Cam Ranh). Đây là các cộng
đồng nghề cá có truyền thống lâu đời(6) và họ đã sớm thích ứng với những đổi mới trong
quản lí nghề cá (từ đầu thập kỉ 90), nhanh chóng có được các tầu lớn, có khả năng đánh
bắt xa bờ và sử dụng các loại ngư cụ khác nhau. Các nghề chính là nghề lưới kéo (lưới
giã), lưới vây, lưới rê trôi, câu khơi, lưới trủ, mành đèn, lưới đăng. Tuy nhiên, việc phát
triển đánh bắt xa bờ đòi hỏi hộ ngư dân phải có đầu tư lớn, phải có nguồn nhân lực , có
kinh nghiệm và khả năng tổ chức. Việc đánh bắt xa bờ lại gặp rủi ro lớn hơn (chẳng hạn
6 Đình Trường Đông ở Phường Vĩnh Trường có từ năm 1853.
7
do thiếu thông tin về nguồn lợi, do bão...). Vì vậy, trong cộng đồng này vẫn còn xen lẫn
nhiều hộ ngư dân đánh bắt nhỏ ven bờ và các ngư dân chuyên làm thuê.
Chúng tôi đã khảo sát khóm Bình Tân và khóm Trường Hải (phường Vĩnh
Trường, TP Nha Trang). Bình Tân chủ yếu có các tầu lớn (công suất trung bình đội tầu
khoảng 50CV), trong khi Trường Hải chủ yếu là các tầu nhỏ (công suất trung bình của
đội tầu chỉ 25 CV). Các tàu thuyền này chủ yếu là đánh bắt ven bờ. Một số hộ mặc dù có
tàu công suất lớn, nhưng do đánh bắt ở ngư trường xa không hiệu quả nên cũng chuyển
sang đánh bắt gần bờ. Đương nhiên, điều này làm cho việc đánh bắt quá mức ở biển ven
bờ tăng lên rõ rệt.
Trong những năm từ giữa thập kỉ 90 trở lại đây, do đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản,
nhất là các mặt hàng có giá trị kinh tế cao, nên nhiều hộ ngư dân có vốn lớn đã đầu tư vào
nuôi trồng thủy sản. Ở vùng vịnh Nha Trang chủ yếu là nuôi tôm hùm lồng bè. Những
người nghèo đã tìm thấy một sinh kế thay thế là làm các dịch vụ cho các hộ nuôi tôm
hùm (cung cấp thức ăn cho tôm, chăm sóc lồng bè...). Việc nuôi lồng bè với mật độ cao,
những khó khăn trong kiểm soát bệnh tôm cũng như việc phải di dời lồng bè khỏi vịnh
Nha Trang đã làm cho việc nuôi tôm hùm bị thoái trào.
Hình 3 - Sự phân bố hộ thủy sản và lao động thủy sản
chuyên làm thuê ở tỉnh Khánh Hòa (2001)
8
Một bộ phận ngư dân nghèo khác tìm sinh kế bằng các dịch vụ cho các tầu đánh
cá lớn như vá lưới, thu gom hải sản, làm thuê cho các cơ sở chế biến nước mắm... hoặc
các sinh kế khác nhau ngoài lĩnh vực thủy sản.
Cộng đồng nghề cá ở thôn Tân Thành và thôn Ngọc Diêm (xã Ninh Ích, huyện
Ninh Hòa) tiêu biểu cho các cộng đồng nghề cá ven các vịnh biển kín (Vịnh Văn Phong,
Đầm Nha Phu). Các vịnh biển này có những bãi sinh sản của tôm, cá; biển nông và gần
bờ rất thuận lợi cho sự tồn tại của nghề cá nhỏ, thậm chí là các thuyền thủ công không lắp
máy. Chính vì vậy, ven các vịnh này tập trung nhiều ngư dân nghèo. Dẫu sao thì tài
nguyên thủy sinh của các vịnh biển khá hạn chế (các hệ sinh thái tại chỗ, không có các
luồng cá di cư lớn), nên một sự khai thác quá mức dễ làm cho hệ sinh thái bị tổn thương.
Do vịnh tương đối kín nên nếu tình trạng ô nhiễm môi trường xảy ra thì cũng khó khắc
phục hơn, Chính vì vậy, khi có sự tranh chấp trong sử dụng tài nguyên ven biển, thì các
ngư dân nghèo bị tác động trước hết và họ ít có khả năng tự tạo ra sinh kế mới. Từ giữa
thập kỉ 90, Viện Hải dương học Nha Trang đã nghiên cứu điều kiện sống của vẹm xanh
và chuyển giao công nghệ nuôi vẹm xanh và sự phát triển của nhu cầu tôm hùm giống đã
làm xuất hiện nghề bẫy tôm hùm con ở Đầm Nha Phu.
Cộng đồng nghề cá nhỏ có tỉ lệ nghèo cao, phần đông các gia đình chỉ có thuyền
nhỏ hoặc đi làm thuê. Theo người dân thì nguyên nhân nghèo là do tính chất thất thường
của công việc và yếu tố rủi ro lớn, người ta cũng nói nhiều rằng "biển bạc",