Trong lịch sử triết học, Hêgen được coi là người có công lao to lớn 
trong việc xác định vai trò của logic trong nhận thức chân lý. Đánh giá cao 
công' lao này của ông, trong Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học 
cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Tư tưởng cơ bản vĩ đại cho rằng không 
nên coi thế giới là tổng hoà những sự vật đã hoàn thành, mà là tổng hoà 
những quá trình trong đó các sự vật, bề ngoài hình như không biến đổi, cũng 
như các phản ánh tư tưởng của những sự vật vào đầu óc chúng ta, tức là 
những ý niệm, đều trải qua một sự biến đổi không ngừng là sự phát sinh và sự 
tiêu vong, trong đó, b ất chấp tất cả những sự ngẫu nhiên bề ngoài và tất cả 
những bước thụt lùi tạm thời, một sự phát triển tiến lên rút cuộc vẫn được 
thực hiện, - tư tưởng cơ bản vĩ đại đó, đặc biệt là từ Hêgen trở đi, đã ăn sâu 
vào trong ý thức chung đến nỗi dưới hình thức chung ấy, nó hầu như không bị 
ai bác bỏ nữa".
Có thể nói, bằng sự tổng kết toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của 
nhận thức, Hêgen đã xác định rõ trình độ của mỗi giai đoạn nhận thức và vai 
trò của các học thuyết logic: "Phép biện chứng: phép biện chứng bên ngoài, 
sự suy luận không đâu vào đâu, mà trong đó linh hồn của bản thân sự vật 
không được hoà tan. Phép biện chứng nội tại của đối tượng, nhưng thuộc về 
phương thức xem xét của chủ thể. Tính khách quan kiểu Hêraclít, tức là phép 
biện chứng, mà bản thân được hiểu như là một nguyên tắc". Điều đó cho thấy, 
Hêgen đã phân biệt phép biện chứng hay logic của ba loại đối tượng: chủ 
quan, hiện tượng và khách quan. Nhắc lại tư tưởng này của Hêgen, Lênin đã 
diễn đạt một cách rõ ràng hơn: 
“Phép biện chứng chủ quan: Trong đối tượng có phép biện chứng, 
nhưng tôi không biết, có lẽ đây chỉ là cái vẻ bề ngoài, chỉ là hiện tượng. 
Phép biện chứng hoàn toàn khách quan, coi như là nguyên lý của tất cả cái gì 
tồn tại".
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2713 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan niệm của hêraclit về sự hài hòa và đấu tranh của các mặt đối lập, về tính thống nhất của vũ trụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: 
“Quan niệm của hêraclit về sự hài hòa và đấu tranh 
của các mặt đối lập, về tính thống nhất của vũ trụ” 
Trong lịch sử triết học, Hêgen được coi là người có công lao to lớn 
trong việc xác định vai trò của logic trong nhận thức chân lý. Đánh giá cao 
công' lao này của ông, trong Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học 
cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Tư tưởng cơ bản vĩ đại cho rằng không 
nên coi thế giới là tổng hoà những sự vật đã hoàn thành, mà là tổng hoà 
những quá trình trong đó các sự vật, bề ngoài hình như không biến đổi, cũng 
như các phản ánh tư tưởng của những sự vật vào đầu óc chúng ta, tức là 
những ý niệm, đều trải qua một sự biến đổi không ngừng là sự phát sinh và sự 
tiêu vong, trong đó, bất chấp tất cả những sự ngẫu nhiên bề ngoài và tất cả 
những bước thụt lùi tạm thời, một sự phát triển tiến lên rút cuộc vẫn được 
thực hiện, - tư tưởng cơ bản vĩ đại đó, đặc biệt là từ Hêgen trở đi, đã ăn sâu 
vào trong ý thức chung đến nỗi dưới hình thức chung ấy, nó hầu như không bị 
ai bác bỏ nữa". 
Có thể nói, bằng sự tổng kết toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của 
nhận thức, Hêgen đã xác định rõ trình độ của mỗi giai đoạn nhận thức và vai 
trò của các học thuyết logic: "Phép biện chứng: phép biện chứng bên ngoài, 
sự suy luận không đâu vào đâu, mà trong đó linh hồn của bản thân sự vật 
không được hoà tan. Phép biện chứng nội tại của đối tượng, nhưng thuộc về 
phương thức xem xét của chủ thể. Tính khách quan kiểu Hêraclít, tức là phép 
biện chứng, mà bản thân được hiểu như là một nguyên tắc". Điều đó cho thấy, 
Hêgen đã phân biệt phép biện chứng hay logic của ba loại đối tượng: chủ 
quan, hiện tượng và khách quan. Nhắc lại tư tưởng này của Hêgen, Lênin đã 
diễn đạt một cách rõ ràng hơn: 
“Phép biện chứng chủ quan: Trong đối tượng có phép biện chứng, 
nhưng tôi không biết, có lẽ đây chỉ là cái vẻ bề ngoài, chỉ là hiện tượng... 
Phép biện chứng hoàn toàn khách quan, coi như là nguyên lý của tất cả cái gì 
tồn tại". 
Theo Hêgen, chỉ có quy luật của ý niệm, ý niệm thuần tuý là kết tinh 
của tất cả các trạng thái, các ý niệm logic về tính chủ quan, về hiện tượng 
(khách quan) chỉ là sự tha hoá của ý niệm thuần tuý, "bởi vì ý niệm thuần tuý 
của nhận thức đã bị giam hãm như vậy trong tính chủ quan, nên nó là khuynh 
hướng muốn thủ tiêu tính chủ quan ấy đi, và chân lý thuần tuý, với tính cách 
là kết quả cuối cùng, cũng trở thành sự bắt đầu của một lĩnh vực khác và của 
một khoa học khác". Với luận điểm này của Hêgen, Ph.Ăngghen đánh giá 
rằng, ở Hêgen là chủ nghĩa duy vật lộn đầu xuống dưới, vì 'tư tưởng về sự 
chuyển hoá của ông đã đi đến mâu thuẫn mà, như Lênin nhận xét, "chính 
trong lúc ý niệm thiết định mình là tính thống nhất tuyệt đối của khái niệm 
thuần tuý và của thực tại của nó, và vì vậy tự ghép mình vào tính trực tiếp của 
tồn tại, thì với tính cách là tổng thể được hình thức ấy, ý niệm là giới tự 
nhiên". Theo đó, ở Hêgen thì ý niệm có tính thứ nhất, ý niệm logic chuyển 
hoá thành giới tự nhiên và như Lênin nhận xét rằng, ở Hêgen, chủ nghĩa duy 
vật đã ở trong tầm tay, nếu như từ ý niệm thuần tuý là điểm xuất phát của 
phép biện chứng, Hêgen xây dựng nên hệ thống logic biện chứng của ý niệm. 
Dựng lại phép biện chứng của Hêgen, đặt nó đứng bằng hai chân trên 
mảnh đất hiện thực, các nhà kinh điển của triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, ý 
niệm logic chỉ là sự phản ánh logic của thế giới khách quan. Rằng, "logic 
không phải là học thuyết về hình thức bên ngoài của tư duy, mà là học thuyết 
về những quy luật phát triển của "tất thảy mọi sự vật vật chất, tự nhiên và tinh 
thần", tức là học thuyết về những quy luật phát triển của toàn bộ nội dung cụ 
thể của thế giới và nhận thức thế giới, tức là sự tổng kết, tổng số, kết luận của 
lịch sử nhận thức thế giới". Như vậy, trong định nghĩa này đã bao quát ba 
dạng logic của ba đối tượng - cái vật chất, cái tự nhiên và cái tinh thần với tư 
cách là sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, trong đó, có một logic 
xuyên suốt, thống nhất cả ba logic này và được gọi là logic học. 
Từ logic tự nhiên, khách quan hình thành nên logic trong nhận thức của con 
người. Logic trong nhận thức là các phạm trù, khái niệm đánh dấu mức độ và 
khả năng nhận thức của con người đối với thế giới: "Trước con người, có 
màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con người bản năng, người man rợ, 
không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, 
những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận 
thức thế giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và 
nắm vững được màng lưới’. 
Như vậy, không những là logic, cái tĩnh tại, các quy luật của thế giới 
khách quan mà còn là cả sự chuyển hoá của chúng nữa cũng được phản ánh 
vào logic chủ quan, tinh thần, đó là bản chất của cái logic trong triết học Mác 
- Lênin. Nếu Hêgen mới chỉ cảm nhận thấy rằng, "vận động của ý thức giống 
như sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự nhiên và tinh thần" là dựa trên 
"bản tính của những bản chất thuần tuý hợp thành nội dung của logic" thì 
Lênin đã khẳng định rằng, biện chứng 
Quan niệm của Hêraclit về sự hài hòa và đấu tranh của các mặt đối lập, 
về tính thống nhất của vũ trụ 
Hêraclít (520 - 460 trước CN) 
 Hêraclít (520 - 460 trước CN) - nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người 
không chỉ nổi tiếng với học thuyết về "dòng chảy", mà còn trở nên bất hủ với 
quan niệm độc đáo về sự hài hòa và đấu tranh của các mặt đối tập, về tính 
thống nhất của vũ trụ. "Dòng chảy" được thừa nhận là nguyên lý xuất phát 
trong quan niệm của Hêraclít về vũ trụ, là học thuyết xuyên suất toàn bộ hệ 
thống triết học của ông. Song, cái làm nên nét độc đáo, sự khác biệt rõ ràng 
nhất giữa Hêraclít với các nhà triết học trước ông và cùng thời đại với ông, 
thậm chí với cả các nhà triết học sau ông, lại không phải là học thuyết về 
“dòng chảy" hay quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất, mà là quan 
niệm, có thể nói, hết sức độc đáo của ông về sự hài hòa, đấu tranh của các mặt 
đối lập trong vũ trụ và tính thống nhất của vũ trụ ấy quan niệm được coi là 
một phỏng đoán thiên tài của Hêraclít về quy luật thống nhất và đấu tranh của 
các mặt đối lập. 
Khi coi lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên tố vật chất đầu tiên của mọi 
dạng vật chất, toàn bộ thế giới hay vũ trụ chẳng qua chỉ là sản phẩm biến đổi 
của lửa, "hết thảy mọi sự vật đều chuyển hóa thành lửa, lửa cũng chuyển hóa 
thành hết thảy sự vật" Hêraclít đã đi đến quan niệm về tính thống nhất của vũ 
trụ. Ông cho rằng vũ trụ - cái thế giới mà con người đang sống trong đó - 
thống nhất ở một cái duy nhất là ngọn lửa vĩnh hằng, bất diệt. Ông viết: "Thế 
giới là một chỉnh thể bao gồm vạn vật. Thế giới là đồng nhất đối với hết thảy 
mọi sự vật tồn tại trong nó. Thế giới ấy không do bất cứ vị thần nào sáng tạo 
ra, cũng không do bất cứ người nào sáng tạo ra. Thế giới là một ngọn lửa sống 
bất diệt (Chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T) trong quá khứ hiện tại cũng như trong 
tương lai. Ngon lửa ấy cháy sáng trong một khoảnh khắc nhất định và cũng 
tàn lụi đi trong một khoảnh khắc nhất định theo những quy luật của nó". Sự 
thống nhất ấy của Vũ trụ được Hêraclít hình dung như là sự lan toả hương vị 
với nồng độ khác nhau trong khói thuốc từ một điếu thuốc đang được đốt 
cháy bởi lửa. Đánh giá quan niệm này của Hêraclít, V.I.Lênin coi đó là "một 
sự trình bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng”. 
Khẳng định tính thống nhất của thế giới, của vũ trụ a ngọn lừa sống duy nhất, 
vĩnh hằng, Hêraclít cho rằng thế giới hiện thực hay vũ trụ đang tồn tại ấy là 
cái duy nhất (L’un), đồng thời cũng là cái đa (cái nhiều), đúng hơn là cái bội 
đa (Multiple). Quan niệm này đã đưa Hêraclít đến một trình độ khái quát triết 
học cao hơn, trừu tượng hơn về sự thống nhất của các mặt đối lập trong vũ 
trụ. Ông cho rằng, mọi cái đồng nhất đều luôn tồn tại trong sự khác biệt và đó 
là cái hài hòa của những cái căng thẳng, độc lập, cũng như sức căng của dây 
cung, dây đàn. Rằng "thiện và ác chỉ là một" (B58), sống và chết, thức và ngủ, 
trẻ và già trước sau cũng đều là một"(B88). Coi đó là sự “tương phản", "tương 
thành" của sự vật trong vũ trụ Hêraclit khẳng định:"Đối lập tạo ra hài hòa, 
giống như cây cung và chiếc đàn sáu dây"(B51). Hết thảy mọi sự vật trong vũ 
trụ đều tồn tại trong thể thống nhất của cái phân chia được - cái không phân 
chia được, cái toàn bộ - cái bộ phận, cái đồng nhất - cái không đồng nhất, cái 
được sinh ra - cái không được sinh ra, cái chết - cái không chết... giống như 
"cây cung” tên gọi của nó là sống, nhưng tác dụng của nó là chết"(B48). 
Trong vũ trụ này hết thảy "những vật xung khắc lẫn nhau hợp thành một. 
Những âm điệu khác nhau hợp lại thành một hòa âm đẹp đẽ nhất"(B8). 
Các mặt đối lập ấy của sự vật, theo Hêraclít, luôn "trao đổi" với nhau trong sự 
thống nhất, như lạnh trao đổi với nóng để nóng lên và ngược lại, nóng trao đổi 
với lạnh để lạnh đi: ướt trao đổi với khô và khô trao đổi với ướt. Ngay trong 
mỗi con người Hêraclít khẳng định, sống và chết, trẻ và già, thức và ngủ, tỉnh 
táo và mơ mộng... cũng luôn trao đổi với nhau, "cái sau biến hóa thành cái 
trước, cái trước biến hòa lại trở thành cái sau”(B88). Và khi cùng tồn tại trong 
một sự vật, các mặt đối lập này luôn có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, như 
"bệnh tật khiến cho người ta thấy sức khoẻ quý hơn, cái ác làm cho cái thiện 
trở nên cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, cái mệt mỏi làm cho 
việc nghỉ ngơi có được sự thú vị hơn"(B111). Mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau 
ấy của các mặt đối lập trong sự vật, theo Hêraclít, "cũng giống như con nhện 
nằm ở giữa màng nhện, chỉ cần một con ruồi đụng phải đường tơ nào đó thì 
con nhện ấy lập tức phát hiện và tiến tới chỗ đó như thế là đụng đến đường tơ 
khiến cho nó đau đớn lắm không bằng. Cũng giống như linh hồn, khi thân thể 
bị thương tổn ở một chỗ nào đó thì linh hồn cũng tiến tới chỗ đó như thế là nó 
không chịu được nỗi đau đớn của thể xác, và đó là bởi linh hồn có một mối 
liên hệ chặt chẽ với thân thể"(B67). 
Quan niệm như vậy về các mặt đối lập trong sự vật cho thấy, Hêraclít đã nói 
đến "sự phân đôi của cái thống nhất" mà việc "nhận thức các bộ phận mâu 
thuẫn của nó", cái làm nên thực chất, bản chất, đặc trưng, đặc điểm cơ bản 
nhất trong tư tưởng biện chứng của ông, đã khiến cho nhà triết học Arixtốt, 
như nhận xét của Lênin, luôn phải "nát óc" và đấu tranh chống lại. 
Khẳng định thế giới hay vũ trụ vừa là cái duy nhất, vừa là cái bội đa và trong 
nó, các mặt đối lập vừa có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, vừa có sự trao đổi, 
chuyển hóa lẫn nhau, Hêraclít cho rằng, chính với tư cách ấy mà thế giới hiện 
thực, vũ trụ này luôn tồn tại với sự hoàn hảo và hài hòa vốn có của nó. Sự 
hoàn hảo, tính hài hòa này của vũ trụ, theo quan niệm của Hêraclít, là sự 
thống nhất nội tại, là sư hòa hợp, sự cân bằng của các mặt đối lập cấu thành 
chỉnh thể (sự vật, hiện tượng, thế giới, vũ trụ). Rằng chính sự hoàn hảo và hài 
hòa ấy đã đem lại cho mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ này tính xác định, 
tính vững chắc và tính ổn định. Nhờ có sự hoàn hảo, hài hòa vốn có ấy mà 
mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ mới là nó, mới tồn tại. Nhưng sự hoàn 
hảo, hài hòa ấy theo Hêraclít, chi là tương đối, tính xác định, vững chắc và ổn 
định của mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ cũng là tương đối. Trong vũ trụ 
này không có cái gì là bất biến, là tuyệt đối, vĩnh viễn ngoại trừ sự vận động. 
Mọi sự hoàn hảo, hài hòa của vũ trụ đều có thể bị phá vỡ bởi cuộc chiến tranh 
giữa các mặt đối lập vốn có của nó. Nhờ sự đấu tranh, trao đối và chuyển hóa 
của các mặt đối lập mà mọi sư vật, hiện tượng và cả vũ trụ có thể chuyển hóa 
từ trạng thái này sang trạng thái khác, vận động và biến đổi Đấu tranh của các 
mặt đối tập đó là nguồn gốc của vận động và biến đổi, là cái tạo nên “dòng 
chảy" liên tục của vũ trụ. Đấu tranh là cái nội tại, vốn có ở sự hoàn hảo, hài 
hòa, bởi mọi sự hoàn hảo và hài hòa đều được tạo thành không phải từ một 
cái gì đó ở bên ngoài, mang tính huyền bí, mà từ các phương diện khác nhau 
và đối lập nhau của chính nó. Ông viết: “Sự hài hòa được tạo ra bởi cái chỉnh 
thể và cái chưa chỉnh thể (cái bộ phận), cái phù hợp với nhau và cái không 
phù hợp với nhau, cái tích tụ và cái phân tán, cái hòa điệu và cái không hòa 
điệu, và từ cái chỉnh thể (đối lập) sinh ra cái một và từ cái một sinh ra cái 
chỉnh thể” (B10). 
Hêraclít nhấn mạnh, làm rõ sự khác biệt giữa các mặt đối lập để chỉ ra sự 
thống nhất của chúng và nhấn mạnh, làm rõ sụ thống nhất của các mặt đối lập 
để chỉ ra những khác biệt. giữa chúng. Qua đó, Hêraclít muốn nói rằng, con 
người không nên phán đoán về các sự vật qua cái vẻ bề ngoài mà đường như 
là hài hòa, hoàn hảo ấy của chúng, "không nên kết luận quá sớm về một việc 
nào đó" (B47) khi chưa nhận thức được các mặt đối lập của nó đấu tranh với 
nhau như thế nào để tạo nên sự hài hòa và trong sự hài hòa ấy, chúng lại đấu 
tranh với nhau như thế nào để tạo nên sự hài hòa mới. Bởi người ta thường 
nhận thấy các mặt đối lập của sự vật tách rời nhau và cho rằng chúng có thể 
tồn tại một cách tách biệt, không phu thuộc vào nhau, song trên thực tế, các 
mặt đối lập ấy lại tồn tại trong thể thống nhất, chúng thiết định lẫn nhau, quy 
định lẫn nhau, tạo thành sự hài hòa, thành một chỉnh thể hòa hợp, hoàn hảo. 
Đối lập là bản chất của cái hài hòa. Không có các mặt đối lập theo Hêraciít, 
mọi sự hài hòa trong nghệ thuật, trong cuộc sống và trong cả vũ trụ này cũng 
đều không có, bởi thiếu chúng sẽ không có gì để hòa hợp. Không có các mặt 
đối lập thì mọi sự đấu tranh đều không có, vì không có chúng sẽ không có gì 
để đấu tranh. Hài hòa và đấu tranh đó là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất. 
Vũ trụ này là một chỉnh thể thống nhất bởi ngọn lửa sống vĩnh hằng không 
ngừng bùng cháy và lụi tàn theo logos của nó - Logos vũ trụ. 
Mọi chỉnh thể thống nhất (sự vật, hiện tượng thế giới, vũ trụ) theo Hêraclit, 
luôn vận động và biến đổi, luôn là một “dòng chảy" liên tục, nó vừa đồng 
nhất, vừa không đồng nhất với chính mình, nó tự khác biệt với chính mình 
một cách nội tại, vốn có. Khi được hình thành và ngày một tăng lên, muốn sự 
khác biệt ấy ngày càng “làm suy yếu” sự hòa hợp, tính hài hòa, tính chính thể 
nội tại của sự vật. Đó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập 
càng mất đi sự phù hợp với nhau, thì chúng càng hợp với nhau cho một cuộc 
đấu tranh và sự đấu tranh giữa chúng càng mang tính chất căng thẳng, có 
được sự thắng lợi của một mặt đối lập, cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập sẽ 
tạo ra một sự vật mới, một chỉnh thể hòa hợp mới, chỉnh thể mới này lại tuân 
theo quy luật của “dòng chảy" vĩnh hằng và biến đổi phổ biến để đến lượt 
mình, nó lại sinh ra trong bản thân nó những sự khác biệt mới, những mặt đối 
lập mới và theo đó, một cuộc đấu tranh mới giữa các mặt đối lập mới lại xuất 
hiện. Khẳng định điều này qua sự biến đổi của lửa, Hêraclít cho rằng: "Sự 
chuyển hóa của lửa là: đầu tiên thành biển, một nửa biển thành đất, nửa còn 
lai thành gió xoáy… Đất lại hóa thành biến và tuân theo Logos mà trước kia, 
biển hóa thành đất đã tuân theo (B31). Khẳng định sự đấu tranh của các mặt 
đối lập là vĩnh hằng, Hêraclit còn cho rằng, đấu tranh là nguồn gốc của mọi 
cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là một mặt trong "sự sống" của mọi cái 
đang diễn ra. Mặt khác trong "sự sống” ấy là tính hòa hợp, tính có trật tự, tính 
hài hòa. Một chỉnh thể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với các mật đối lập của 
nó, giống như cái ác bao giờ cũng tồn tại với mặt đối lập của nó là cái thiện, 
cái chết với mặt đói lập của nó là cái sống... và ngược lại. Toàn bộ vấn đề là ở 
chỗ, mặt đối lập nào chiếm ưu thế trong một thời điểm cụ thể. Đó cũng là cái 
tất yếu trong “sự sống" của mọi cái đang tồn tại. Trong vũ trụ này không 
những luôn tồn tại một lực lượng phủ định, lực lượng tạo ra những sự khác 
biệt và các mặt đối lập đấu tranh với nhau, mà còn luôn tồn tại một lực lượng 
khẳng định, lực lượng kiến tạo cái chỉnh thể hài hòa, thống nhất từ chính 
những cái khác biệt và đối lập ấy. Những cái khác biệt, đối lập hợp nhất với 
nhau để từ những cái khác biệt, đối lập ấy xuất hiện một sự hài hòa, giống 
như những âm điệu khác nhau hợp thành một hòa âm, "tất cả mọi sự vật đều 
ra đời trong đấu tranh" (B8). 
Vốn là "linh hồn" của sự phủ định sự vật cũ, đấu tranh, theo Hêraclít cũng 
đồng thời là một yếu tố tích cực trong vũ trụ. Nó thể hiện phương diện năng 
động của tồn tại, là kết quả của nhu cầu và sự không thỏa mãn vĩnh hằng, là 
nguồn gốc của mọi sự biết đổi, đổi mới, nguồn gốc của “dòng chảy" liên tục 
trong vũ trụ. Sự hài hòa đó là kết quả của đấu tranh, đó cũng là "linh hồn" của 
vũ trụ. Và với tư cách đó, hài hòa là cái tuyệt vời của vũ trụ, cái làm nên sự 
hoàn hảo, sự vĩnh hằng của vũ trụ. Song, sự hài hòa ấy cũng luôn chứa đựng 
trong nó một yếu tố tiêu cực là xu hướng ngừng trệ và đứng im - đặc trưng 
của những cái "đang chết" trong vũ trụ. Cái "đang chết" ấy, theo Hêraclít, là 
vốn có trong vũ trụ, song không có gì phải lo ngại cái "đang chết" đó, bởi 
trong nó luôn có sự đấu tranh để "xoa dịu” và ngăn chặn không cho phép nó 
"chết" và chính xác hơn là khi "đang chết", nó lại trở nên mới mẻ, giống như 
mặt trời mỗi ngày đều mới mẻ để qua đó, duy trì sự tồn tại của cả nó lấn vũ 
trụ. Với quan niệm này, khi nói về sự sống và cái phủ định luôn bao hàm 
trong nó cái khẳng định, và ngược lại. Bí mật của mọi chỉnh thể thống nhất là 
ở tính phân đôi nội tại đó của mọi cái đang tồn tại. Bí mật của vũ trụ cũng là ở 
tính phân đôi nội tại, vốn có. 
Không đồng ý với quan niệm của nhà thơ mù Hôme về sự không tồn tại của 
đấu tranh trong lĩnh vực của Thượng đế và con người", quan niệm đã giữ địa 
vị của một tư tưởng thống trị ở các nhà tư tưởng tử thế kỷ XII đến thế kỷ IX 
trước Công nguyên, Hêraclít cho rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là hiện 
tượng phổ biến trong vũ trụ, không có đấu tranh sẽ không có bất cứ sự hài hòa 
nào và ngược lại, khi đấu tranh không còn thì mọi cái cũng biến mất (A22). 
Phản đối chủ trương của nhà toán học cổ đại, nhà triết học được người đương 
thời tôn vinh là "người cha của triết học thần thánh" - Pitago (571- 497 trước 
CN), người chủ trương loại trừ đấu tranh khỏi sự hài hòa và xác lập một sự 
hài hòa vĩnh hằng, sự hài hòa không có biến đổi trong vũ trụ, một "sự hài hòa 
chết" và bất động trong tự nhiên và trong cuộc sống, Hêraclít tuyên bố nên 
nhớ rằng, chiến tranh (ở ông chiến tranh được đồng nhất với đấu tranh - 
Đ.H.T) là phổ biến" (B80), chiến tranh là cha của vạn vật, cũng là vua của 
vạn vật" (Chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T) (B53). 
Điều đó cho thấy, trong quan niệm của Hêraclít, đấu tranh giữa các mặt đối 
lập là tất yếu, là quy luật tất yếu của vũ trụ, là logos vũ trụ. Với ông, đấu tranh 
của các mặt đối lập là cái mang tính phổ biến, là nguồn gốc ra đời của mọi sự 
vật, hiện tượng trong vũ trụ. Ông viết: "Tất cả đều sinh ra từ đấu tranh và từ 
tính tất yếu (B80). Với ông, đấu tranh giữa các mặt đối lập không phải là cái 
được đem vào cuộc sống và vũ trụ này từ đâu đó ở bên ngoài, mà là cái vốn 
có trong cuộc sống, trong vũ trụ. Mọi sự đấu tranh đều có thể dẫn đến tình 
cảnh bí đại, song nó là tất yếu của tồn tại, là cái nội tại, vốn có của cuộc sống, 
của vũ trụ - vũ trụ với tư cách là một sự hài hòa nào đó. Đấu tranh và hài hòa 
đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập, là một sự thống nhất tối cao nào đó, 
là sự hòa hợp và hài hòa của vũ trụ. Sự thống nhất và hài hòa tối cao ấy của 
vũ trụ, theo Hêraclít là sự thống nhất và hài hòa đầy bí ẩn, "sự hài hòa không 
trông thấy được", nhưng nó là sự hài hòa mạnh hơn sự hài hòa trông thấy 
được (B54). 
Vũ trụ là sự hài hòa bí ẩn, "sự hài hòa không trông thấy được” và mạnh hơn 
"sự hài hòa trông thấy được" trong quan niệm của Hêraclít có nghĩa rằng, sự 
hài hòa bí ẩn là sự hài hòa thần thánh" được hiểu theo ng