Đề tài Quan niệm về con người trong lịch sử triết học trung quốc cổ đại giai đoạn xuân thu - Chiến quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay

Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị. Con người là thước đo của mọi bậc thang giá trị. LÞch sö nh©n lo¹i, xÐt ®Õn cïng, lµ lÞch sö gi¶i quyÕt vÊn ®Ò con ng­êi, tõng b­íc tho¸t khái thÇn quyÒn vµ b¹o quyÒn ®Ó ®i ®Õn môc tiªu cuèi cïng lµ ph¸t triÓn toµn diÖn c¸ nh©n trong x• héi v¨n minh. Kh«ng mét d©n téc nµo tån t¹i vµ ph¸t triÓn l¹i kh«ng chó ý tíi vÊn ®Ò con ng­êi, cã ®iÒu lµ kh¸c nhau ë môc ®Ých vµ ph­¬ng ph¸p gi¶i quyÕt mµ th«i. Nhận thức được vai trò to lớn của vÊn ®Ò con người, đặc biệc trong thời kỳ đổi mới đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người chủ nghĩa xã hội.Con người chủ nghĩa xã hội chính là con người mới, phát triển toàn diện: có tinh thần làm chủ xã hội, có trí thức văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Hiện nay, thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện, Đại hội lần thứ IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát triển nguồn lực con người với yêu cầu ngày càng cao, không thể không kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc nói riêng và kế thừa tinh hoa của tư tưởng nhân loại về con người nói chung. Chúng ta xây dựng nền văn hóa mới, đạo đức mới, con người mới trên nền tảng những giá trị ấy, trong đó có cả những quan niệm về đạo đức, con người của trường phái Nho gia, Mặc gia và Pháp gia. Vấn đề đặt ra là, chúng ta có thể và cần phải kế thừa những gì, loại bỏ những gì từ trong di sản đạo đức, con người của các trường phái triết học nói trên. Do đó, khai thác và phát huy những điểm tích cực cũng như khắc phục, xóa bỏ những hạn chế của quan niệm về đạo đức, con người Nho gia, Mặc gia, Pháp gia trong việc xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giờ đây là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: “Quan niệm về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.

doc46 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3583 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan niệm về con người trong lịch sử triết học trung quốc cổ đại giai đoạn xuân thu - Chiến quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP ………..***………. THUYẾT MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Tên đề tài QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY THÁI NGUYÊN - 2010 MỤC LỤC Stt Nội dung Trang 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1 2 NỘI DUNG Chương 1: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC 7 1.1 Quan niệm của Nho gia về con người 7 1.2 Quan niệm của Mặc gia về con người 11 1.3 Quan niệm của Pháp gia về con người 13 Chương 2: QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI TRONG Xà HỘI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 15 2.1 Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa người với người 15 2.2 Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa người với người 20 2.4 Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa người với người 22 2.4 Ý nghĩa của các quan niệm nêu trên trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay 24 3 KẾT LUẬN 39 4 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41 MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị. Con người là thước đo của mọi bậc thang giá trị. LÞch sö nh©n lo¹i, xÐt ®Õn cïng, lµ lÞch sö gi¶i quyÕt vÊn ®Ò con ng­êi, tõng b­íc tho¸t khái thÇn quyÒn vµ b¹o quyÒn ®Ó ®i ®Õn môc tiªu cuèi cïng lµ ph¸t triÓn toµn diÖn c¸ nh©n trong x· héi v¨n minh. Kh«ng mét d©n téc nµo tån t¹i vµ ph¸t triÓn l¹i kh«ng chó ý tíi vÊn ®Ò con ng­êi, cã ®iÒu lµ kh¸c nhau ë môc ®Ých vµ ph­¬ng ph¸p gi¶i quyÕt mµ th«i. Nhận thức được vai trò to lớn của vÊn ®Ò con người, đặc biệc trong thời kỳ đổi mới đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người chủ nghĩa xã hội.Con người chủ nghĩa xã hội chính là con người mới, phát triển toàn diện: có tinh thần làm chủ xã hội, có trí thức văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Hiện nay, thực hiện chiến lược phát triển con người toàn diện, Đại hội lần thứ IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát triển nguồn lực con người với yêu cầu ngày càng cao, không thể không kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc nói riêng và kế thừa tinh hoa của tư tưởng nhân loại về con người nói chung. Chúng ta xây dựng nền văn hóa mới, đạo đức mới, con người mới trên nền tảng những giá trị ấy, trong đó có cả những quan niệm về đạo đức, con người của trường phái Nho gia, Mặc gia và Pháp gia. Vấn đề đặt ra là, chúng ta có thể và cần phải kế thừa những gì, loại bỏ những gì từ trong di sản đạo đức, con người của các trường phái triết học nói trên. Do đó, khai thác và phát huy những điểm tích cực cũng như khắc phục, xóa bỏ những hạn chế của quan niệm về đạo đức, con người Nho gia, Mặc gia, Pháp gia trong việc xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giờ đây là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài: “Quan niệm về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của tôi, ở Việt Nam có các tác giả sau: Vũ Minh Tâm (chủ biên): “Tư tưởng triết học về con người”, Nxb Giáo dục, 1996. An Mạnh Toàn (dịch): “con người- những ý kiến mới về một đề tài cũ”, Nxb Sự thật, Hà Nội. Gi¸o s­ Ph¹m Nh­ C­¬ng (chñ biªn): : “VÒ vÊn ®Ò con ng­êi vµ x©y dùng con ng­êi míi”, Nxb Giáo dục, 1978. Vâ Nguyªn Gi¸p (chñ biªn): Chñ tÞch Hå ChÝ Minh víi sù nghiÖp x©y dùng con ng­êi míi- In trong cuèn "Chñ tÞch Hå ChÝ Minh, ng­êi chiÕn sÜ céng s¶n kiªn c­êng...", Nxb Th«ng tin lý luËn, Hµ Néi, 1990. Nguyễn Văn Hiền: “Thuyết kiêm ái: nội dung, giá trị và ý nghĩa đối với việc xây dựng đạo đức ở nước ta”, Tạp chí Triết học, số 232, 9-2010. Triệu Quang Minh, Trần Thị Lan Hương: “Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi”, tạp chí Triết học, số 219, 8-2010. Nguyễn Thị Thu Thủy: “Một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và vai trò, ý nghĩa của nó với việc hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay”, Báo cáo NCKH năm 2010. Và còn rất nhiều những công trình khác và những bài viết trong các tạp chí khi nói về con người nói chung, trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Những công trình và bài viết trên đã phân tích khái quát một cách chung nhất và làm sáng tỏ vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, do thời gian có hạn nên trong đề tài nghiên cứu khoa học này, tôi chỉ trình bày một số quan niệm cơ bản về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: Báo cáo khoa học trình bày một cách hệ thống Quan niệm về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc và rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích có 3 nhiệm vụ: + Quan niệm của các học phái về con người Quan niệm của Nho gia về con người. Quan niệm của Mặc gia về con người. Quan niệm của Pháp gia về con người. + Quan niệm của các học phái về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Quan niệm của Nho gia về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. - Quan niệm của Mặc gia về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội - Quan niệm của Pháp gia về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. + Rút ra ý nghĩa của vấn đề phân tích trên trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là một số quan niệm cơ bản về con người trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc, từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu là các tài liệu liên quan đến đạo đức, con người của trường phái Nho gia, Mặc gia, Pháp gia và vấn đề con người trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam. 5. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu Báo cáo dựa trên cơ sở của những nguyên lý triết học Mác – Lênin, đồng thời sử dụng và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp logic – lịch sử, phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa… 6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hệ thống quan niệm con người trong trường phái triết học Nho gia, Mặc gia và Pháp gia, qua đó rút ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Những kết quả đạt được của báo cáo nghiên cứu khoa học là sự bổ sung cho quá trình nghiên cứu về quan niệm con người trong giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc và ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nó có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học tập về vấn đề con người trong quan niệm của triết học Trung Quốc cổ trung đại nói riêng và vấn đề con người nói chung. 7. Kết cấu của báo cáo khoa học Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo gồm 2 chương, 7 tiết. Chương 1: Khái quát quan niệm về con người trong triết học Trung Quốc cổ đại giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc (gồm 3 tiết). Chương 2: Quan niệm về mối quan hệ giữa con người với con người trong giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay (gồm 4 tiết). NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI GIAI ĐOẠN XUÂN THU - CHIẾN QUỐC Như chúng ta đã biết Trung Quốc là một quốc gia nhiều dân tộc có lịch sử lâu đời, là một trong những nước có nền văn minh sớm nhất trên thế giới. Triết học Trung Quốc từ khi ra đời đến nay, đã trải qua các giai đoạn phát triển từ Hạ, Thương, Tây Chu và đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc (707 TCN-221 TCN). Có thể nói rằng đây là thời kỳ phồn vinh, trăm hoa đua nở, Chư tử bách gia đã rầm rộ sáng lập nên các hệ thống triết học độc đáo. Từ thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, xã hội Tây Chu bước vào một thời kỳ có nhiều biến động lớn lao, toàn diện kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ III TCN. Lịch sử gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Ở thời kỳ này đồ sắt xuất hiện phổ biến, công cụ bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp. Thế kỷ thứ VI và thứ V TCN xuất hiện những thành thị thương nghiệp buôn bán nhộn nhịp ở các nước Hàn, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng xã hội. Giai cấp quý tộc, thị tộc Chu bị mất đất đai, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút và chính điều này đã ảnh hưởng đến địa vị chính trị, ngôi Thiên Tử của nhà Chu, biến sự tồn tại vua chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt sang hèn dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc không còn phù hợp, đòi hỏi trong lúc này, xã hội phân chia phải dựa trên cơ sở tài sản. Các nước chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn nhau, tự xưng Bá “Vương đạo suy vi”, tầng lớp quý tộc địa chủ mới lên ngày càng giàu có, lấn át cả quý tộc thị tộc cũ “trên yếu dưới mạnh” thậm chí còn chiếm cả chính quyền. Như vậy, kết quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tài sản, có địa vị kinh tế trong xã hội (Hiển tộc) nhưng không được tham gia vào chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc cũ của nhà Chu. Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công thương nhân với giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách ra, chuyển hoá lên giai tầng mới, một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt họ cũng không hài lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con đường cải lương, cải cách. Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng mâu thuẫn với tầng lớp đại quý tộc thị tộc đang nắm chính quyền. Mâu thuẫn giữa nông dân công xã thuộc các tộc bị người Chu nô dịch với nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ. Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến đòi hỏi giải thể chế độ của nhà nước gia trưởng, xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất mở đường cho xã hội phát triển. Xã hội trong thời kỳ này đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị. Những thành quả đạt được trên nhiều lĩnh vực chính là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng của thời kỳ này. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên hệ thống triết học khá hoàn chỉnh. Khởi nguồn của tư tưởng triết học Trung Quốc có thể là thần thoại thời tiền sử. Song tư tưởng triết học Trung Quốc trong đó có “vấn đề con người” trở thành hệ thống hoàn chỉnh thì phải đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc thời đại của trí tuệ được giải phóng, trí thức được tôn là thầy, trí thức được phổ cập. Phong trào “Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh” là biểu hiện sinh động của tư tưởng học thuật từ quyền lực nhà nước chuyển xuống thiên hạ rộng rãi. Cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc học thuyết của các tư tưởng gia mọc lên như rừng trong khoảng “103 nhà” nổi lên “ Sáu nhà”. Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm Dương gia trong đó có ảnh hưởng lớn nhất là Nho gia, Mặc gia và Pháp gia. Nội dung tư tưởng triết học của ba học phái này lấy con người làm trung tâm và mục tiêu nhận thức. Đề cao giá trị đạo đức và tinh thần nhân văn; khẳng định giá trị tích cực của con người đối với mình và đối với xã hội; đặt con người trong mối quan hệ giữa con người với con người. Các học phái này tập trung phân tích con người từ bản chất và có mục tiêu chung là xây dựng con người đạo đức, có nghĩa, có nguyên tắc. 1.1.Quan niệm của Nho gia về con người Trong lịch sử triết học Trung Quốc, Nho giáo là một trường phái triết học đã đưa ra học thuyết chính trị đạo đức để giáo hoá con người, nhằm củng cố duy trì trật tự xã hội. Để làm được điều đó, giáo lý của Nho giáo thiên về việc xem xét lý giải con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là luận bàn về bản tính con người thông qua khái niệm “tính người”, “tâm người”, “lý người”, tức chỉ là bàn đến phẩm chất tinh thần, ý thức tâm lý, tư tưởng mà chưa đi sâu vào bản chất đích thực của con người. Mặc dù, mỗi nhà triết học của Nho giáo xem xét bản chất con người ở mỗi khía cạnh khác nhau ( Khổng Tử: Tính tương cận, tập tương viễn; Mạnh Tử:tính thiện; Tuân Tử: tính ác), song trong toàn bộ quá trình vận động của lịch sử tư tưởng thì ở họ, vẫn có sự kế thừa, phát triển và làm cho quan niệm về bản chất con người ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. 1.1.1. Khổng Tử chưa đi sâu vào nghiên cứu bản chất con người. Tuy vậy, khi bàn về bản chất con người Khổng Tử đã cho rằng bản tính của con người là thiện và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người. Ông nói: “Tính tương cận giả, tập tương viễn giả” [8, tr.81]. Nghĩa là con người khi mới sinh ra đều có tính trời phú cho là gần giống nhau, nhưng do quá trình tiếp xúc và học hành làm cho họ có sự khác nhau: có kẻ trí , người ngu. Phẩm chất của con người là chất phác, chân thực. Nó là điều kiện thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản tính của con người là thiện nhưng vì con người quen thói đời mê vật dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn giữ lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian. Vào thời Chiến Quốc do hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động nên các nhà tư tưởng của trường phái triết học Nho giáo khi xem xét bản chất con người đã tuyệt đối hoá một mặt trong bản chất con người hoặc là thiện hoặc là ác. Mặc dù Mạnh Tử và Tuân Tử là môn đồ của trường phái triết học Nho gia nhưng khi bàn về bản chất của con người, hai ông đã có sự đối lập nhau thậm chí nhiều khi còn có sự trái ngược nhau trong quan điểm nhưng dù họ có sự tuyệt đối hoá về mặt này hay mặt khác, thì vẫn có sự kế thừa,bổ sung và phát triển tư tưởng của Khổng Tử với những góc độ khác nhau và ở chính họ cũng có sự bổ sung cho nhau khi xem xét bản chất con người. 1.1.2. Khi bàn về bản chất con người, Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là thiện và tính thiện của con người thể hiện qua bốn đức lớn: nhân, lễ, nghĩa, trí. Bốn đức lớn đó của con người bắt nguồn từ tứ đoan hay bốn đầu mối của thiện, còn gọi là thiện đoan, là tài chất, bản chất trời phú cho con người, sinh ra đã có như mầm cây trong hạt giống, như tứ chi của cơ thể. Bốn tứ đoan là: lòng trắc ẩn (biết thương sót), lòng tu ố (biết thẹn ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết phân biệt phải trái). Không có lòng trắc ẩn thì khong phải là người, không có lòng từ nhượng thì không phải là người, không có lòng thị phi thì cũng không phải là người. Trắc ẩn là đầu mối của nhân, tu ố là đầu mối của nghĩa, từ nhượng là đầu mối của lễ, và thị phi là đầu mối của trí. Con người có bốn cái đầu mối ấy như thân thể có sẵn tứ chi. Đây là những đoan mà con người khi sinh ra đã có. Tứ đoan là bốn cái đầu mối của điều thiện nên gọi là thiện đoan. Thiện đoan là cái tính cố hữu của con người. Nếu con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì dễ dàng trở thành thánh nhân còn nếu đánh mất thiện đoan để nó mai một, suy tàn thì trở nên nhỏ nhen không khác gì loài cầm thú. Đã có bốn mối ấy ở trong mình, mà biết mở rộng ra cho thông thì như lửa mới bắt đầu cháy, như suối mới bắt đầu chảy. Bên cạnh đó theo Mạnh Tử, bản chất con người là thiện còn vì “tính là cái chung là cái bản chất của một loài”. Ở loài người, có nhiều điểm giống nhau, trong đó điểm giống nhau đầu tiên là tài chất, là bản năng thiện do trời phú cho. Sau đó là sự giống nhau ở các quan năng để nhận biết tốt xấu thị phi. Với tài chất và quan năng ấy, ai cũng sẵn có mầm thiện Mạnh Tử nói, phàm những vật đồng loại đều mang một bản tính giống nhau tại sao đối với con người, người ta lại nghi ngờ rằng bản tính lại tương tự? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều là một loại tức là tâm tính giống nhau hết thảy. Bản chất con người là thiện còn vì trong mỗi con người đều có cái tâm. Tâm là cái chủ thể trong tinh thần của con người là cái thần minh trời phú cho con người để hiểu bết, ứng xử với vạn vật, để phân biệt phải, trái, tốt, xấu… biết được điều này chính là bốn đầu mối của thiện, bốn đầu mối đó vốn có sẵn trong con người không phải do bên ngoài nâng đúc. Theo Mạnh Tử tâm là cái gốc của tính thiện, tâm với tính là một và tâm là do trời phú nên khi biết cái tính của mình là biết cái tính của trời, tâm là nơi phân biệt mọi điều phải trái tốt xấu, nên sự hiểu biết từ tâm sâu sắc hơn từ sự hiểu biết ở các quan năng. Trong các quan năng thì tai, mắt là cái không suy nghĩ nên bị sự vật bên ngoài che lấp vật tiếp xúc với vật nên dễ bị vật đem đi lạc đường. Tâm là cái suy nghĩ thì hiểu được lẽ phải, hiểu được chính tà. Như vậy theo Mạnh Tử, cái biết phải trái, chính tà, nhân nghĩa đã có thiện do tâm đem lại là cái tự mình biết trời sinh làm người đã có cái biết ấy. Đó là cái biết tiên thiện là cái “sinh tri” của con người. Mặc dù cho rằng con người sinh ra đã có sẵn tính thiện nhưng theo Mạnh Tử, tính thiện đó không phải là bất biến. Con người có thể đánh mất cái tâm cố hữu của mình, sa vào con đường bất thiện khi có ngoại cảnh xấu tác động. Bản tính của con người giống như bản tính nước chảy vào chỗ trũng. Không một người nào khi sinh ra mà tự bất thiện, cũng như không một thứ nước nào khi sinh ra mà lại chảy ngược dòng. Song, nếu như bị đắp đập ngăn bờ thì nước sẽ chảy tràn cả núi. Cũng vậy, nếu bị vật dục che lấp thì bản tính vốn lành sẽ ngược chiều ngay. Tuy nhiên tác động của ngoại cảnh cũng có giới hạn của nó. Khi tâm của con người thật vững vàng thì vật dụng vô hiệu. Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú ý đến vấn đề giáo hoá để làm cho con người không mai một lương tâm. Như vậy, với Mạnh Tử, bản tính trời phú cho con người là thiện và nếu có thành ra bất thiện là vì con người không biết giữ lấy cái tâm. Bởi ông tin có cái thiện là lí trí thiện, mà tính con người là một phần của thiện lí ấy. Và con người cần giáo dục làm cho bản tính thiện đó không bị mờ tối và cần phải trau dồi nó cho nó phát triển để trở thành một người tốt. 1.1.3. Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử đã tận mắt thấy cảnh tranh giành xâu xé, chém giết lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa con người với con người trong xã hội, nên ông chủ trương lý giải bản chất con người bắt đầu bằng tính ác. Theo ông, vì khi mới sinh ra con người vốn đã có sẵn lòng ham muốn và dục vọng nên để thoả mãn những ham muốn và dục vọng đó, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình. Và điều đó tất phải dẫn đến sự tranh giành xâu xé, cướp bóc, chiếm đoạt của nhau. Tuân Tử cho rằng: “tính con người sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì ra đoạt lẫn nhau và sự từ nhượng không có, sinh ra là đố kị, thuận theo tính đó thì thành ra tàn tặc, mà lòng trung tín không có, sinh ra có lòng muốn của tai mắt có lòng thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lý không có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh ra tra