Cạnh tranh là một quy luật cơ bản của một nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh tạo ra động lực cho thị trường phát triển. Nhờ có cạnh tranh, hàng hoá ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, giá cả ngày càng hạ, chất lượng ngày càng cao, dịch vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Hơn nữa, cạnh tranh giúp các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng nâng cao khả năng cạnh tranh. Song xét theo những phương diện khác, cạnh tranh chính là yếu tố đưa lại những hậu quả tiêu cực về kinh tế - xã hội. Cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh và tất yếu độc quyền xuất hiện. Chính vì sự chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế và hôi nhập kinh tế quốc tế đặt ra vấn đề không chỉ cần có hệ thống văn bản pháp luật phù hợp để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới mà còn phải có kiến thức cơ bản về những lĩnh vực pháp luật đó, đặc biệt là pháp luật cạnh tranh.
Pháp luật cạnh tranh ra đời sẽ ngăn cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có hành vi “ép buộc trong kinh doanh”, từ đó sẽ giúp xã hội công bằng hơn, lợi ích của các doanh nghiệp và khách hàng sẽ được đảm bảo.
25 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3348 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Qui luật cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH SÁCH NHÓM 8X
Dương Thị Thảo – Nhóm trưởng
Phan Thị Phượng
Phạm Thị Thanh Tâm
Vũ Thị Tuyết Sương
Nguyễn Thị Huyền Trang
Trần Thị Thuỳ Vi
Nguyễn Thị Thuý Hằng
Hoàng Tiến Dũng
LỜI MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một quy luật cơ bản của một nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh tạo ra động lực cho thị trường phát triển. Nhờ có cạnh tranh, hàng hoá ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, giá cả ngày càng hạ, chất lượng ngày càng cao, dịch vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Hơn nữa, cạnh tranh giúp các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng nâng cao khả năng cạnh tranh. Song xét theo những phương diện khác, cạnh tranh chính là yếu tố đưa lại những hậu quả tiêu cực về kinh tế - xã hội. Cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh và tất yếu độc quyền xuất hiện. Chính vì sự chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế và hôi nhập kinh tế quốc tế đặt ra vấn đề không chỉ cần có hệ thống văn bản pháp luật phù hợp để điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới mà còn phải có kiến thức cơ bản về những lĩnh vực pháp luật đó, đặc biệt là pháp luật cạnh tranh.
Pháp luật cạnh tranh ra đời sẽ ngăn cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có hành vi “ép buộc trong kinh doanh”, từ đó sẽ giúp xã hội công bằng hơn, lợi ích của các doanh nghiệp và khách hàng sẽ được đảm bảo.
PHẦN I. VẤN ĐỀ CHUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường và cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh tranh đã xuất hiện từ lâu trong nền kinh tế hàng hoá nhưng nó diễn ra khốc liệt hơn trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do cạnh tranh, nó luôn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển. Vì vậy, doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường phải luôn luôn đổi mới về sản phẩm, về tổ chức quản lí cũng như các chính sách cạnh tranh. Cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực cho con người phát triển, con người thấy cần thay đổi những gì cần thiết cho đời sống. Từ đó, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Cạnh tranh đem đến cho người tiêu dùng nhiều lợi ích như hàng hoá tốt hơn, giá mua rẻ hơn.
Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh, trong xã hội ngày nay có rất nhiều doanh nghiệp vì sự sống còn, vì muốn khẳng định vị trí của mình trên thương trường một cách nhanh chóng mà đã có nhiều “thủ đoạn” cạnh tranh không trong sáng.
Vậy cạnh tranh có nghĩa như thế nào?
Cạnh trạnh là một khái niệm rất rộng, xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong kinh tế, cạnh tranh liên quan đến mọi lĩnh vực của thị trường và mọi chủ thể kinh doanh.
Theo từ điển kinh doanh của Anh năm 1992 thì “ Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Theo từ điển Tiếng Việt “Bách khoa tri thức phổ thông” thì cạnh tranh là sự ganh đua giữa những nhà sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Vì vậy, người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, áp dụng khoa học-công nghệ cao hơn...để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Cạnh tranh, làm cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Trong thực tế vừa tồn tại hành vi cạnh tranh lành mạnh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Phần cốt lõi của cạnh tranh lành mạnh chính là ở chỗ phát huy hết năng lực của mình, để khiến cho bản thân mình có tầm vóc nhất, ưu tú nhất, chứ không phải là nghĩ cách khiến cho đối thủ gục ngã.
Thái độ cạnh tranh được coi là lành mạnh khi nó thể hiện những đặc điểm sau:
- Ngay thẳng, trung thực với đối thủ.
- Không được xem đối thủ cạnh tranh là kẻ thù.
- Cạnh tranh một cách trung thực (tuyệt đối không là kẻ cản trở, là vật cản đối với sự thành công của người khác).
Chẳng hạn như: chiến lược của Southwest Airlines là cạnh tranh trên cơ sở chi phí thấp, phục vụ thường xuyên, nhiều hoạt động chính đã làm cho chiến lược này khả thi, và được các hoạt động khác hỗ trợ. Ví dụ, việc giữ giá vé thấp là một hoạt động chính của chiến lược. Hoạt động này được hỗ trợ bởi tần suất sử dụng máy bay cao, hạn chế sử dụng các đại lý du lịch, máy bay tiêu chuẩn hóa, phi hành đoàn làm việc công suất cao, v.v. Thiếu bất kỳ hoạt động nào trong số này, chiến lược chi phí thấp của Southwest Airlines sẽ bị hủy hoại. Các đối thủ của Southwest Airlines cố gắng cạnh tranh với chiến lược này bằng cách đưa ra giá vé thấp và khởi hành thường xuyên, nhưng do thiếu các hoạt động hỗ trợ, tất cả đều thất bại. Theo Porter: “Các hoạt động của Southwest bổ sung cho nhau theo cách thức tạo ra giá trị kinh tế thực sự. Đó là cách mà sự phù hợp chiến lược tạo ra lợi thế cạnh tranh và khả năng sinh lợi cao”.
=> Đây có thể được coi là một trong những hành vi cạnh tranh lành mạnh của Southwest Airlines trong lĩnh vực hàng không.
Hoặc:
Câu chuyện lập nghiệp của Samsung hay những hãng xe hơi Nam Hàn là một ví dụ tốt, họ kiên trì bắt đầu từ những con số 0 nhưng nhanh chóng đuổi kịp các đại gia điện tử thế giới như Sony, RCA, hay đuổi kịp các đại gia ô tô như GM, Ford, Toyota, Honda. Họ bắt đầu từ những “con chấu chấu” bé nhỏ và đã làm nên cái chuyện đá “voi” một cách thành công.
Qua một ví dụ khác không kém tính minh họa, Google, một “con châu chấu” trong làng IT so với các đại gia Yahoo, MSC, Microsoft trong những năm 2001, 2002 đã dám ngang nhiên đá những “chú voi” khổng lồ này và ngày nay thậm chí đã vượt qua mặt đối thủ của mình để khẳng định vị thế trong thị trường IT. Vì vậy, đừng bao giờ khinh thường một ý tưởng, một doanh nghiệp mới khởi tạo cho dù với một ý tưởng hơi ngây ngô, vì lúc nào đó nó có thể từ “con chấu chấu” chuyển mình thành “thằn lằn”, thậm chí “khủng long” trong điều kiện thích hợp.
Yếu tố nào đã giúp cho “chấu chấu” thắng “voi” trong thương nghiệp? Đó không phải là việc dùng những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để có thể vươn lên sánh vai cùng những “chú voi” khổng lồ mà đó là sự hiểu rõ sức mạnh và sở trường cũng như sở đoản của mình, bao gồm tính nhanh nhẹn, tính tích cực, khả năng chịu rủi ro cao, và mức độ liều lĩnh của những “con chấu chấu” thương nghiệp này.
Vì vậy, về mặt bản chất thì cạnh tranh không phải là xấu nhưng những người kinh doanh với mục đích lợi nhuận của mình đã bóp méo bản chất tốt đẹp của nó. Nó đã làm cho nền kinh tế xã hội không phát triển tự nhiên theo một chu trình, hay còn gọi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong số các hành vi này, một số hành vi thể hiện sự xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh như xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha, quấy rối, ép buộc doanh nghiệp khác, một số hành vi có thể ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh, đồng thời lại vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh… Ví dụ chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng những thông tin chỉ dẫn (chẳng hạn trên bao bì, nhãn hàng, các pano quảng cáo ...) gây ra sự nhầm lẫn về tên thương mại, logo, chỉ dẫn địa lý ... để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình.
Ví dụ : Sản phẩm trà chanh Nestea của Nestle và trà chanh Freshtea của Công ty Thuý Hương.
Sản phẩm trà chanh Nestea hiện được ưa chuộng trên thị trường nhưng không ít khách hàng, nhất là khách hàng ở các tỉnh, bị nhầm lẫn với Freshtea của công ty Thuý Hương.
Theo tài liệu của Công ty sở hữu trí tuệ Banca được công bố công khai trong cuộc hội thảo do Bộ Công thương tổ chức thì, công ty Thuý Hương (Thanh Trì, Hà Nội) đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Cụ thể, Thuý Hương đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa Freshtea và Nestea. Sự tương tự về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả về cách trình bày, bố cục, màu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát hiện hai gói trà chanh này là do hai công ty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu dùng được hỏi thì cho rằng, cả Freshtea và Nestea cùng là sản phẩm của công ty Nestle, vì trông chúng rất... giống nhau!
Cùng nằm trong dòng sản phẩm của công ty Nestle, sản phẩm sữa Milo bị tới hai hãng khác cạnh tranh không lành mạnh thông qua các chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn. Sản phẩm sữa Good Cacao của Cty Mina được sản xuất với những điểm tương tự sữa Milo như: Tương tự về bao gói sản phẩm, cách thức trình bày, bố cục, màu sắc hay khuyến mại không lành mạnh.
Ví dụ về khuyến mãi không đúng : Bột nêm massan
Theo một công bố của Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thì Công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình khuyến mại bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”.
Công ty Unilever Bestfood đã khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh. Thanh tra Sở đã lập biên bản và yêu cầu đình chỉ chương trình khuyến mại.
è Vậy cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực giúp nền kinh tế phát triển, ngược lại cạnh tranh không lành mạnh sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì hành vi “ép buộc trong kinh doanh” cũng là một trong những hành vi thường xuyên diễn ra ở các doanh nghiệp. Vậy “ép buộc trong kinh doanh” có nghĩa như thế nào? Nó mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp? Nó có ảnh hưởng như thế nào đến xã hội và người tiêu dùng.
Có hai trường hợp ép buộc trong kinh doanh phổ biến đó là doanh nghiệp ép buộc doanh nghiệp và doanh nghiệp ép buộc khách hàng. Những hành vi ép buộc khách hàng của các doanh nghiệp hết sức tinh vi, đôi khi có thể đánh lừa được cảm nhận của khách hàng và khách hàng có thể nghĩ rằng nó mang lại lợi ích cho mình nhưng thực tế thì ngược lại. Có thể đưa ra một ví dụ về doanh nghiệp ép doanh nghiệp để có thể hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của nó đối với kinh tế.
Đó là trường hợp của bia Laser bị những nhãn hiệu cạnh tranh trực tiếp như Tiger, Heineken… chèn ép một cách khốc liệt. Ngay sau khi xuất hiện trên thị trường bằng chương trình "Tuần lễ bia Laser", với chiêu thức uống miễn phí tại các quán ăn và nhà hàng ở TP.HCM, bia Laser đã bị các đại gia trong lĩnh vực "dập" đến mức không quán bia nào dám đưa Laser vào kinh doanh. Không những thế, để "cảnh cáo" các quán nhậu và cửa hàng khác, một quán nhậu đã bị công ty liên doanh kiện ra tòa vì dám bán bia Laser. Các công ty này buộc các đại lý, quán bia, cửa hàng... ký hợp đồng độc quyền đối với nhãn hiệu của họ với điều kiện ràng buộc là không được bán, trưng bày, giới thiệu, tiếp thị... hay nhận chiêu thị nữ cho bất kỳ thương hiệu bia nào khác. Bù lại các đại lý, cửa hàng, quán bia... được công ty tài trợ từ 50 triệu đến vài ba trăm triệu đồng/năm để sẵn sàng ngăn cản chiến dịch "đi trước một bước" của Laser ở bất kỳ nơi đâu cho dù thành phố hay các tỉnh. Các cửa hàng, quán bia, đại lý... nói trên không "dám" nhận bán hàng cho bia Laser; thậm chí còn không dám trưng mẫu quảng cáo có hình ảnh bia Laser ngay tại cơ sở kinh doanh của họ. "Đây là kiểu cạnh tranh không lành mạnh, các công ty liên doanh này đã lợi dụng tiềm lực tài chính và sự ảnh hưởng của nó trên thị trường để chèn ép các công ty nhỏ hơn và việc tài trợ mua chuộc này nhằm mục đích phong tỏa, không cho các thương hiệu bia khác tiếp cận được với khách hàng, không phát triển được sản xuất và buộc họ phải thua cuộc khi chưa kịp cạnh tranh gì trên thị trường theo đúng nghĩa của nó", liệu hành vi cạnh tranh của công ty liên doanh bia đề cập ở trên có đúng pháp luật hay không?
Chính bởi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó của các doanh nghiệp trên thị trường nên Luật Cạnh tranh ra đời là cơ sở pháp lý để xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng, đồng thời cũng tạo cơ hội cho doanh nghiệp nhỏ tồn tại và phát triển được trước những đối thủ lớn, đồng thời phục vụ, bảo vệ người tiêu dùng. Việc ban hành Luật cạnh tranh là cần thiết nhằm bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong một khuôn khổ pháp luật chung, điều tiết mặt trái của cạnh tranh bằng cách kiểm soát quá trình dẫn đến vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền của DN, chống các hành vi gây cản trở cạnh tranh, cũng như những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường.
2. Cơ sở pháp lí
Luật cạnh tranh là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh; hành vi cạnh tranh không lành mạnh; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh và biện pháp xử lí vi phạm về pháp luật cạnh tranh. Trong luật cạnh tranh quy định các hành vi cạnh tranh lành mạnh và không lành mạnh.
Cạnh tranh không lành mạnh trước hết, là một khái niệm bắt nguồn từ những quy định mang tính nguyên tắc trong pháp luật dân sự, theo đó, các chủ thể trong giao dịch phải đảm bỏ tôn trọng thuần phong, mỹ tục và đạo đức xã hội ở mỗi quốc gia.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Khoản 4 Điều 3 LCT 2004)
Là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Cạnh tranh không lành mạnh phản ánh mặt trái của hành vi, có nghĩa là hành vi đó có dấu hiệu trái với chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh của các chủ thể tham gia thị trường, họ sử dụng các thủ pháp không phù hợp với chuẩn mực đạo đức kinh donh như gian dối, thông tin sai sự thật về hàng hoá dịch vụ, ép buộc… nhằm gây thiệt hại hoặc bất lợi về cạnh tranh cho một hoặc một số chủ thể khác có liên quan. Nhìn chung, cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đi ngược lại nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh luôn có bản chất của nó là không tốt đẹp, bất chính nhằm vò đối thủ cạnh tranh cụ thể nào đó. Nó là những hành vi cạnh tranh gây cản trở hoạt động hoặc gây thiệt hại trực tiếp hợc gián tiếp đến chủ thể kinh doanh khác.
Trước khi có Luật cạnh tranh, Luật Thương Mại năm 1997 cũng đã xác định một số nguyên tắc sơ khai về hoạt động cạnh tranh của thương nhân, thực chất chính là đưa mô hình ứng xử lành mạnh trong kinh doanh. Những mô hình ứng xử thể hiện như sau: (Điều 8 LTM 1997)
Thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại.
Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh gây tổn hại đến lợi ích quốc gia và các hành vi sau đây:
Đầu cơ để lũng đoạn thị trường
Bán phá giá để cạnh tranh.
Dèm pha thương nhân khác.
Ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe doạ nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân khác.
Xâm phạm quyền về nhãn hiệu hàng hoá, các quyền khác về sở hữu công nghiệp của thương nhân khác.
Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác.
è Như vậy nội dung của Luật cạnh tranh một phần kế thừa từ Luật Thương mại nưm 1997.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm ( Điều 39 LCT 2004)
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Xâm phạm bí mật kinh doanh
Ép buộc trong kinh doanh
Gièm pha doanh nghiệp khác
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Phân biệt đối xử của hiệp hội
Bán hàng đa cấp bất chính
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác
Trong đó, tại Điều 42 Luật cạnh tranh 2004 quy định Ép buộc trong kinh doanh là hành vi của doanh nghiệp đe dọa hoặc cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
PHẦN II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
Trong xã hội hiện đại và nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh là quyền không thể thiếu được của bất kỳ chủ thể kinh doanh nào về mặt thực tế cũng như tiềm năng. Vì mục tiêu đạt được lợi thế cạnh tranh, chủ thể kinh doanh cũng có thể sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc dồn khách hàng vào tình thế bắt buộc phải chấp nhận ký hợp đồng hoặc thừa nhận các điều kiện thương mại không mong muốn mà do điều kiện hoàn cảnh nào đó đã không có sự lựa chọn nào khác. Ép buộc trong kinh doanh luôn luôn hoặc tiềm ẩn khả năng xuất hiện từ những quan hệ kinh doanh không có sự tương xứng về thế mạnh thị trường giữa các bên, theo đó, bên có thế mạnh sẽ khai thác thế mạnh của mình để ép buộc chủ thể kinh doanh nhỏ hơn phải chấp nhận hợp đồng hoặc điều kiện mà bên có thế mạnh đưa ra, bởi thế chủ thể kinh doanh nhỏ phải từ bỏ hoặc ngừng giao dịch với những doanh nghiệp thuộc mối quan hệ cũ của họ. Theo quy định hiện hành, ép buộc trong kinh doanh là hành vi đe doạ hoặc cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch đối với doanh nghiệp đó. Dưới giác ngộ của pháp luật dân sự, những giao dịch như vậy thiếu sự tự nguyện, tự định đoạt của một trong các bên tham gia và chúng có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Chủ thể tiến hành hành vi ép buộc trong kinh doanh có thể là chủ doanh nghiệp, nhân viên của doanh nghiệp hoặc bất kỳ các nhân nào khác với mục đích cạnh tranh không lành mạnh. Việc chứng minh được động cơ, mục đích, người chủ mưu…của những hành vi này là những điều kiện cơ bản để có thể kết luận chủ thể đó có vi phạm quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh hay không?
Ép buộc trong kinh doanh được biểu hiện dưới những hình thức sau:
+ Đe dọa.
+ Cưỡng ép.
+ Lôi kéo.
+ Ngăn cản.
1. Lôi kéo
Lôi kéo là hành vi nhằm dùng các chiêu thức không lành mạnh (như dùng tiền tài, thế lực…) để dụ dỗ, mua chuộc khách hàng sử dụng sản phẩm của mình.
Ví dụ 1:
Tại Hải Dương, Mobifone thực hiện bán hàng lưu động với chương trình “đổi sim mạng khác lấy sim mobifone có 230.000đ trong tài khoản”. khách hàng có sim của mạng khác (như viettel) tài khoản còn dưới 15000đ còn hạn sử dụng có thể đổi miễn phí một sim mobizone của mobifone có sẵn tài khoản 50.000đ, mỗi tháng tặng thêm 15.000đ được tặng trong 12 tháng.
è Như vậy, có thể thấy rằng hành vi này của Mobifone là một hành vi lôi kéo khách hàng từ bỏ việc sử dụng mạng khác để qua sử dụng mobifone nhằm gia tăng số thuê bao và thị phần của mobifone trong thị trường viễn thông. Hành vi này không “công bằng”, bởi lẽ nếu Mobifone muốn lôi kéo khách hàng sử dụng sim của mạng mình thì có rất nhiều cách để thực hiện điều đó, chẳng hạn như giảm giá bán của sim và tăng tài khoản khuyến mãi trong số thuê bao đó, bên cạnh đó thì tăng chất lượng của dịch vụ chăm sóc khách hàng... Hơn nữa, Mobifone là một mạng đã xuất hiện từ lâu và có uy tín trên thị trường viễn thông. Vậy thì hình thức cạnh tranh như trên của mạng điện thoại này là không nên.
Các doanh nghiệp nên lôi kéo khách hàng bằng chính khả năng, thực lực của mình chứ không nên dùng các “ thủ đoạn” không trong sáng để “hại” đối thủ kinh doanh của mình.
Ví dụ 2:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Intel đó là thưởng tiền cho các hãng sản xuất máy tính khi trì hoãn hoặc huỷ bỏ các kế hoạch tung ra t