Biển và đại dương chiếm hơn 71% diện tích bề mặt hành tinh mà chúng ta đang sống. Ngay từ thời cổ đại, loài người đã biết sử dụng và khai thác biển phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt và đời sống của mình. Cho tới ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các hoạt động mọi mặt trên biển đã được triển khai một cách mạnh mẽ, rộng rãi, quy mô ngày càng lớn. Lợi ích của biển và đại dương đem đến cho các nước ven biển ngày càng có ý nghĩa quan trọng và đa dạng, từ đó các mâu thuẫn về biển cũng ngày càng nảy sinh và diễn ra gay gắt, đặc biệt về mặt kinh tế và quân sự. Vì vậy, một nhu cầu rất thiết thực được đặt ra là cần có công ước quốc tế để điều chỉnh các mối quan hệ về biển. Sau Đại chiến thế giới thứ hai, quá trình pháp điển hoá của Luật biển phát triển mạnh thông qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958, 1960 và năm 1973 – 1982. Trong các hội nghị đó, nhiều vấn đề pháp lý về biển được đặt ra trong thực tiễn quốc tế đã dần dần được giải quyết. Đặc biệt, với việc thông qua Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển (Công ước 1982) tại Môngtêgobay (Jamaica), ngày 10-12-1982, với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục, Công ước thực sự là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, đề cập toàn diện tất cả các vấn đề thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác, giải quyết tranh chấp. Có thể nói, Công ước Luật biển 1982 chính là kết quả của một cuộc đấu tranh gay go để giải quyết nhiều loại mâu thuẫn phức tạp khác nhau về lợi ích giữa nhiều loại quốc gia, đặc biệt là trong các quy phạm về quy chế pháp lý các vùng biển.Vì vậy, hoàn toàn đúng đắn khi có ý kiến cho rằng: “Quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982 được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia”. Với việc xem xét quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982, bài viết sau đây sẽ chứng minh cho nhận định trên.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2442 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982 được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Biển và đại dương chiếm hơn 71% diện tích bề mặt hành tinh mà chúng ta đang sống. Ngay từ thời cổ đại, loài người đã biết sử dụng và khai thác biển phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt và đời sống của mình. Cho tới ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các hoạt động mọi mặt trên biển đã được triển khai một cách mạnh mẽ, rộng rãi, quy mô ngày càng lớn. Lợi ích của biển và đại dương đem đến cho các nước ven biển ngày càng có ý nghĩa quan trọng và đa dạng, từ đó các mâu thuẫn về biển cũng ngày càng nảy sinh và diễn ra gay gắt, đặc biệt về mặt kinh tế và quân sự. Vì vậy, một nhu cầu rất thiết thực được đặt ra là cần có công ước quốc tế để điều chỉnh các mối quan hệ về biển. Sau Đại chiến thế giới thứ hai, quá trình pháp điển hoá của Luật biển phát triển mạnh thông qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958, 1960 và năm 1973 – 1982. Trong các hội nghị đó, nhiều vấn đề pháp lý về biển được đặt ra trong thực tiễn quốc tế đã dần dần được giải quyết. Đặc biệt, với việc thông qua Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển (Công ước 1982) tại Môngtêgobay (Jamaica), ngày 10-12-1982, với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục, Công ước thực sự là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, đề cập toàn diện tất cả các vấn đề thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác, giải quyết tranh chấp... Có thể nói, Công ước Luật biển 1982 chính là kết quả của một cuộc đấu tranh gay go để giải quyết nhiều loại mâu thuẫn phức tạp khác nhau về lợi ích giữa nhiều loại quốc gia, đặc biệt là trong các quy phạm về quy chế pháp lý các vùng biển.Vì vậy, hoàn toàn đúng đắn khi có ý kiến cho rằng: “Quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982 được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia”. Với việc xem xét quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982, bài viết sau đây sẽ chứng minh cho nhận định trên.
NỘI DUNG
Như ta đã biết, biển và đại dương mang lại nguồn lợi rất lớn, không chỉ về kinh tế mà biển còn có ý nghĩa vô cùng to lớn với nhiều mặt của đời sống xã hội. Chính vì vậy mà có biển thực sự là một lợi thế lớn đối với các quốc gia ven biển. Trên thế giới, các nước có biển, nhất là các nước lớn đều vươn ra biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và khống chế biển. Tuy nhiên, bên cạnh những quốc gia ven biển, trên thế giới tính đến năm 2008 có tổng cộng 45 quốc gia không giáp biển. Vậy, những quốc gia không giáp biển có được hưởng lợi ích từ biển hay không? Công ước Luật biển 1982 với việc định ra khung pháp lý cho các quốc gia trong việc xác định các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng, đã cho phép các quốc gia không có biển được hưởng một số quyền nhất định. Theo Công ước, mỗi quốc gia ven biển có năm vùng biển, bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngoài năm vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển thì Công ước còn quy định các vấn đề về biển cả và vùng (di sản chung của loài người) trên đó tất cả các quốc gia đều có quyền sử dụng, khai thác... với điều kiện không làm phương hại hoặc đe doạ làm phương hại đến các nước khác vì mục đích hoà bình và bảo vệ, giữ gìn môi trường biển. Quy chế pháp lý đối với mỗi vùng biển có sự khác nhau, nhưng đều được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia, dù có biển hay không có biển.
I. Quy chế pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia
Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với vùng nước nội thuỷ và lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời bên trên, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên dưới các vùng nước đó. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi vùng biển của quốc gia đó. Công ước Luật biển 1982 quy định rất rõ tính chủ quyền đối với hai vùng biển này. Tuy vậy, quy chế pháp lý đối với nội thuỷ và lãnh hải vẫn cho phép các tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền “đi qua không gây hại” ở mức độ nhất định. Điều đó đã thể hiện bên cạnh tính chất chủ quyền quốc gia, quy chế pháp lý hai vùng biển này đã thể hiện sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia.
1. Nội thuỷ:
Theo quy định của Điều 8 Công ước Luật biển 1982, nội thuỷ là “các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Một quốc gia có thể có một hay nhiều vùng nước nội thuỷ với các chế độ pháp lý khác nhau như nội thuỷ thông thường và nội thuỷ trong đó quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền được tôn trọng.
Nội thuỷ thông thường là các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, giáp với bờ biển như vịnh, cửa sông, vũng đậu tàu... Các vùng nước nội thuỷ này được coi như đất liền và tại đó, quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Ở đây, mọi sự ra vào của tàu thuyền hay phương tiện bay nước ngoài trên vùng trời nội thuỷ đều phải xin phép. Ngoài nội thuỷ thông thường, theo khoản 2 Điều 8 Công ước 1982, còn có nội thuỷ mà trong đó tồn tại quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài. Đó là các vùng nước có các đường hàng hải quốc tế đi qua mà vốn trước đó chưa được coi là nội thuỷ nhưng do việc vạch đường cơ sở thẳng, vùng này đã bị gộp vào nội thuỷ. Quy chế về quyền đi qua không gây hại đối với vùng nước nội thuỷ này chính là một biểu hiện của sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia. Mặc dù nội thuỷ có quy chế pháp lý như đất liền của quốc gia ven biển, nhưng với quy định của Công ước, tàu thuyền của các quốc gia khác (kể cả có biển hay không có biển) vẫn được phép đi qua không gây hại trên vùng nước bị gộp vào nội thuỷ này. Quy định này vừa đảm bảo tính chủ quyền tuyệt đối của quốc gia ven biển, vừa đảm bảo quyền lợi cho các quốc gia khác khi cần lưu thông trên biển.
2. Lãnh hải:
Theo quy định chung của luật biển, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với vùng lãnh hải của nước mình. Chủ quyền này không phải là hoàn toàn và tuyệt đối như đối với vùng nội thuỷ của quốc gia ven biển, do việc cộng đồng quốc tế đã thừa nhận quyền “đi qua không gây hại” của tàu thuyền nước ngoài trong vùng lãnh hải. Quyền này đã được ghi nhận tại Điều 17 Công ước – là một quy chế pháp lý điển hình đối với vùng lãnh hải của quốc gia ven biển: “Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải”. Đi qua không gây hại, theo Công ước Luật biển 1982 là việc đi qua nhưng không làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự hay lợi ích của quốc gia ven biển. Các quốc gia ven biển không được phép đặt điều kiện cho các tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình phải xin phép hoặc thông báo trước. Đi qua không gây hại tồn tại đồng thời với chủ quyền quốc gia trong lãnh hải nhưng không làm mất đi chủ quyền đó. Như vậy, có thể thấy rằng, với việc thừa nhận quyền qua lại không gây hại này, các quốc gia ven biển đã chấp nhận quyền tự do qua lại của các quốc gia khác (kể cả quốc gia có biển và quốc gia không có biển) trên vùng lãnh hải của mình. Tuy nhiên, quyền tự do ấy là “tự do trong khuôn khổ”, khi nó không được làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự hay lợi ích của quốc gia ven biển. Nói cách khác, quyền qua lại không gây hại không làm ảnh hưởng đến chủ quyền của quốc gia ven biển đối với vùng lãnh hải của mình. Theo truyền thống, qua lại không gây hại là một quyền mang tính tập quán (vụ các hành động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa ngày 27-6-1986). Vì lợi ích phát triển hàng hải quốc tế dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có đi có lại, các quốc gia đã chấp nhận quyền qua lại vô hại trong lãnh hải. Có thể thấy, chủ quyền quốc gia từ nội thuỷ ra lãnh hải giảm dần và quyền của tàu thuyền nước ngoài từ nội thuỷ ra lãnh hải tăng dần. Sự tồn tại của quyền đi qua không gây hại trên lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài đã thể hiện tính “hải” xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả. Đồng thời, tại lãnh hải, quốc gia chỉ có quyền hạn chế, thể hiện tính “lãnh”. Như vậy, Công ước Luật biển đã ghi nhận quyền đi qua không gây hại này dựa trên cơ sở tập quán quốc tế đã có từ lâu đời về sự thoả thuận giữa các quốc gia, nhằm dung hoà lợi ích phát triển kinh tế chung giữa quốc gia ven biển và các quốc gia khác (kể cả quốc gia không có biển.
Hơn nữa, Công ước Luật biển 1982 còn quy định quyền tài phán hình sự của quốc gia ven biển đối với một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải tại Điều 27. Theo đó, quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ 4 trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 27 Công ước. Quy định này của Công ước vừa bảo vệ quyền lợi về an ninh của quốc gia ven biển, vừa đảm bảo thẩm quyền tài phán của quốc gia mà con tàu mang quốc tịch. Qua đó, có thể thấy rõ sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia này.
II. Quy chế pháp lý các vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia
Trong Luật biển quốc tế hiện đại, mở rộng các vùng biển gần bờ đối với các quốc gia ven biển là một xu hướng tất yếu. Nhưng xu hướng này được thực hiện song song với yêu cầu không để ảnh hưởng thái quá đến các quyền tự do truyền thống của cộng đồng quốc tế trong những vùng nước bị tác động bởi xu thế mở rộng này. Đây là đòi hỏi mang tính pháp lý thiết thực trong quá trình pháp điển hoá Luật biển quốc tế hiện đại. Nhằm bảo đảm sự dung hoà giữa xu thế đòi duy trì các quyền tự do vốn có của cộng đồng quốc tế và xu thế tiến ra biển của các nước ven bờ - đặc biệt là các nước đang phát triển, Công ước Luật biển 1982 đã quy định chế độ pháp lý cho các vùng biển vốn thuộc về cộng đồng quốc tế cũng như các vùng biển gần bờ mà tại đó quốc gia ven biển có những quyền nhất định nhưng không phải là chủ quyền lãnh thổ. Đó chính là quy chế pháp lý các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia, bao gồm vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
1. Vùng tiếp giáp lãnh hải:
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài. Khoản 2 Điều 33 Công ước Luật biển 1982 quy định: “Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Đây là bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế. Vùng tiếp giáp là sản phẩm thoả hiệp giữa nhóm quốc gia đòi mở rộng lãnh hải và nhóm quốc gia chống lại đòi hỏi đó. Quy chế pháp lý vùng tiếp giáp được quy định trong Công ước Luật biển 1982 được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa hai nhóm quốc gia này. Điều đó được thể hiện ở đặc quyền kiểm tra, kiểm soát của quốc gia ven biển đối với tàu thuyền đi ra, đi vào và hoạt động trong nội thuỷ và lãnh hải và quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm tại vùng tiếp giáp của các quốc gia khác và tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm phù hợp với xu thế mở rộng chủ quyền của nước ven biển, Công ước Luật biển 1982 đã thừa nhận vùng tiếp giáp mang mang tính chất vùng đệm vì nó không phải là vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia và cũng không phải là vùng biển có quy chế tự do biển cả (khác với Công ước 1958 cho rằng vùng tiếp giáp là một phần của biển cả). Công ước Luật biển 1982 đã cho phép các quốc gia ven biển “có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết” nhằm ngăn ngừa và trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay lãnh hải của mình. Qua đó, quốc gia ven biển có thể thực hiện “quyền chủ quyền” của mình đối với vùng tiếp giáp này. Tuy nhiên, các quốc gia khác và tàu thuyền nước ngoài vẫn được hưởng một số quyền như tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, bởi trước Công ước 1982, vùng tiếp giáp lãnh hải từng được coi là một phần của biển cả. Các quốc gia ven biển được phép thực hiện quyền kiểm soát của mình, nhưng không thể ngăn các quốc gia khác thực hiện quyền tự do hàng hải, tự do hàng không và tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm tại đây. Đồng thời, các quốc gia khác và tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện các quyền này phải tuyệt đối tuân thủ đặc quyền kiểm soát của quốc gia ven biển, tôn trọng “quyền chủ quyền” của quốc gia ven biển đối với vùng tiếp giáp.
2. Vùng đặc quyền kinh tế:
Điều 55 Công ước Luật biển 1982 quy định: “Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó, các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh”. Vùng biển này có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong khoa học pháp lý, vùng đặc quyền kinh tế có quá trình hình thành khá truyền thống, đó là thông qua con đường pháp điển hoá các quy phạm tập quán. Công ước Luật biển 1982 đã quy định rất rõ ràng về chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế. Có thể nhận thấy, đặc quyền kinh tế là vùng biển có bản chất pháp lý hỗn hợp, bởi trong đó vừa tồn tại quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, vừa tồn tại quyền tự do biển cả đã được thừa nhận trong luật biển quốc tế. Chính bản chất này đã tạo nên một vùng biển mang tính chất đặc thù. Sự đặc thù thể hiện trên hai phương diện, tạo sự tương đồng giữa các nhóm lợi ích khác nhau ngay trong vùng đặc quyền kinh tế.
Vùng đặc quyền kinh tế có quy chế pháp lý thể hiện sự cân bằng giữa “các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển” với “các quyền và các quyền tự do của các quốc gia khác”. Theo quy định của Công ước luật biển 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên và quyền tài phán. Đối với tài nguyên sinh vật, quốc gia ven biển có toàn quyền đánh giá nguồn tiềm năng đối với các tài nguyên sinh vật, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc khai thác, duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị khai thác quá mức. Tuy vậy, nhưng sự đánh giá này không được phép vượt quá mức. Một điểm đáng lưu ý là quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, thông qua những điều ước hoặc những thoả thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này. Đây chính là một biểu hiện của sự hợp tác giữa các quốc gia, thoả thuận nhằm tiến tới đạt được lợi ích chung tốt nhất. Ví dụ: ngày 25-12-2000, Việt Nam và Trung Quốc ký kết Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ trong đó cả hai bên đều có cùng thẩm quyền khai thác đối với vùng đánh cá chung rộng 30,5 hải lý tính từ đường phân định. Đặc biệt, các quốc gia ven biển ưu tiên dành quyền đánh số lượng cá dư này cho các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý (Điều 69, điều 70 công ước). Một ví dụ là Việt Nam cho phép Lào đánh bắt lượng cá dư thừa trên vùng đặc quyền kinh tế theo thoả thuận giữa hai bên. Quy định này của Công ước 1982 dựa trên sự cân bằng về lợi ích giữa các quốc gia, đảm bảo lợi ích chính đáng về biển cho các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý. Đặt vấn đề cân bằng lợi ích của các quốc gia khác trpong điều kiện chấp nhận các đặc quyền của nước ven biển thực chất là có liên quan đến việc quy định những nước ven biển song song với quá trình hưởng thụ các đặc quyền trên.
Đối với tài nguyên phi sinh vật, quốc gia ven biển có đặc quyền về xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị. Tuy vậy, đặc quyền này có thể chia sẻ với các quốc gia khác.
Đồng thời, các quốc gia ven biển cũng có quyền tài phán, nhưng chỉ giới hạn trong lĩnh vực thực thi các quyền chủ quyền của nước này trong vùng đặc quyền kinh tế. Sự giới hạn này nhằm hạn chế những ứng xử không phù hợp của nước ven biển đối với quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế, nhằm bảo vệ quyền tự do và lợi ích của nước khác trong vùng này.
Bên cạnh quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Công ước Luật biển cũng trao cho các quốc gia khác, dù có biển hay không có biển, được hưởng các quyền: quyền tự do hàng hải, quyền tự do hàng không và quyền tự do đặt dây cáp ngầm. Những quyền này xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả truyền thống mà quốc gia bất kỳ và tàu thuyền của họ được phép thực hiện như khi đang hoạt động tại biển quốc tế.
Như vậy, trong vùng đặc quyền kinh tế, quy chế pháp lý không những dành cho quốc gia ven biển những đặc quyền mà cũng tạo cơ sở cho các quốc gia khác (có biển và không có biển) được quyền hưởng lợi từ nguồn biển này, một số trong các quyền đó phải dựa trên cơ sở sự thoả thuận và cho phép của quốc gia ven biển.
3. Thềm lục địa:
Thềm lục địa của một quốc gia ven biển được xác định bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài và tiếp liền với lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó (rìa lục địa) cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở một khoảng cách 200 hải lý khi mép ngoài của rìa lục địa ở gần hơn 200 hải lý. Tuy nhiên, ranh giới này không được vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2500m.
Đối với thềm lục địa, Công ước Luật biển 1982 quy định một số đặc quyền của quốc gia ven biển: “Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyềnn đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình” (khoản 1 Điều 77) nhưng không phụ thuộc vào sự chiếm hữu hay tuyên bố rõ ràng nào, đồng thời có quyền tài phán về các lĩnh vực khác nhau... Tuy nhiên, các quyền này không đụng chạm đến chế độ pháp lý của các vùng nước phía trên hay vùng trời phía trên vùng nước này. Như vậy, các quốc gia khác có quyền tự do trên vùng nước và vùng trời đó. Có thể thấy, quy chế pháp lý thềm lục địa phân định rất rõ ràng quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển và các quốc gia khác (kể cả quốc gia có biển và không có biển). Các quốc gia thực hiện quyền của mình không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác, nhằm đảm bảo sự cân bằng về lợi ích giữa các bên.
Tóm lại, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia ven biển là khu vực trung gian giữa các vùng biển chủ quyền quốc gia với các vùng biển thuộc về cộng đồng quốc tế. Khác với các lĩnh vực quốc tế khác, trong lĩnh vực sử dụng khai thác biển, một quốc gia thụ hưởng những lợi ích từ biển luôn trên cả hai phương diện: cá nhân và cộng đồng. Do vậy, mặc dù các vùng biển này thuộc quyền chủ quyền quốc gia nhưng lại được đặt trong tương quan với các vùng biển thuộc sở hữu quốc tế. Cũng chính vì vậy, quy chế pháp lý đối với các vùng biển này ràng buộc mỗi quốc gia có biển vào những nghĩa vụ phải tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của cộng đồng quốc tế. Đồng thời, các quốc gia khác được hưởng quyền lợi từ các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia cũng phải tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển với các vùng biển này. Qua đó, có thể lý giải tại sao Công ước Luật biển 1982 được coi là thoả thuận trọn gói về biển giữa các nước thành viên.
III. Quy chế pháp lý các vùng biển không thuộc quyền tài phán của quốc gia được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia:
Các vùng biển không thuộc quyền tài phán của quốc gia bao gồm biển cả và vùng. So với trật tự pháp lý trước khi Công ước 1982 có hiệu lực, hiện nay giới hạn của biển cả đã bị thu hẹp đáng kể cùng với sự phát triển của xu hướng tiến ra biển của các nước ven bờ. Chính vì vậy, Công ước Luật biển 1982 đã quy định những quy chế pháp lý dành cho vùng biển này nhằm đảm bảo cho các quốc gia có biển cũng như không có biển được quyền bình đẳng và tự do biển cả, đồng thời nhằm gìn giữ, bảo vệ và phát triển các vùng biển này theo hướng bền vững toàn diện.
1. Biển cả:
Biển cả là những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thuỷ của một quốc gia cũng như không nằ