Là cơ quan tài phán của liên hợp quốc, kể từ ra đời đến nay tòa án công lý quốc tế đã có những hoạt động đúng với chức năng và quyền hạn của nó.vậy vai trò của tòa án công lý quốc tế dưới góc độ pháp lý và thực tiễn hoạt động của tòa như thế nào,hiệu quả của những hoạt đông đó ra sao, những đóng góp của tòa trên các lĩnh vực của luật quốc tế sau đây chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề này.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2672 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy chế pháp lý của tòa án công lý quốc tế thực tiễn và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: quy chế pháp lý của tòa án công lý quốc tế thực tiễn và giải pháp.
I.đặt vấn đề:
Là cơ quan tài phán của liên hợp quốc, kể từ ra đời đến nay tòa án công lý quốc tế đã có những hoạt động đúng với chức năng và quyền hạn của nó.vậy vai trò của tòa án công lý quốc tế dưới góc độ pháp lý và thực tiễn hoạt động của tòa như thế nào,hiệu quả của những hoạt đông đó ra sao, những đóng góp của tòa trên các lĩnh vực của luật quốc tế… sau đây chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về vấn đề này.
II. giả quyết vấn đề:
1.những vấn đề chung về tòa án công lý quốc tế:
Tòa án công lý quốc tế là một cơ quan chính của liên hợp quốc. Điều 7 hiến chương liên hợp quốc quy định các cơ quan chính của liên hợp quốc là: đại hội đồng, hội đồng bảo an, hội đồng kinh tế và xã hội, hội đồng quản thúc, ban thư ký và tòa án công lý quốc tế(tòa án quốc tế). Như vậy tòa án công lý quốc tế là một cơ quan chinh của liên hợp quốc, có vai trò to lớn trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Tòa án công lý quốc tế là một trong 6 cơ quan chính của liên hợp quốc, được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở hiến chương liên hợp quốc và quy chế tòa án công lý quốc tế. Hiến chương liên hợp quốc dành toàn bộ chương XIV từ điều 92 đến điều 96 để quy định những vấn đề cơ bản về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của tòa. Quy chế tòa án công lý quốc tế gồm 70 điều, được coi là một phần phụ lục gắn bó hữu cơ với hiến chương liên hợp quốc. Cùng với hiến chương và quy chế, cơ sở pháp lý để tòa tiến hành các hoạt đọng còn bao gồm nội quy của tòa. Nội quy của tòa được thông qua ngày 6/5/1946 nhằm cụ thể hoá các nguyên tắc được nêu trong quy chế tòa án công lý quốc tế. Điều 92 của hiến chương liên hợp quốc quy định: “tòa án công lý quốc té là cơ quan tài phán chính của liên hợp quốc. Tòa án hoạt động phù hợp với một quy chế kèm theo, được xây dựng trên cơ sở quy chế pháp viện thường trực quốc tế. Quy chế của tòa án công lý quốc tế kèm theo hiến chương này và là một bộ phận hợp thành của hiến chương”.
Tòa án công lý quốc tế là cơ quan pháp lý chính của liên hợp quốc. Đây không phải là tổ chức lập pháp mà chỉ là một cơ quan tài phán đưa ra các phán quyết và các kết luận tư vấn trong chừng mực thẩm quyền cho phép. Tuy nhiên, ngày nay không có một cơ quan tài phán nào giải quyết các vấn đề của cộng đồng quốc tế trong một tổng thể và được các quốc gia sử dụng một cách duy nhất trong việc bảo vệ những giá trị của luật quốc tế như tòa án công lý quốc tế. Các phán quyết và kết luận tư vấn của tòa đã đề cập mọi khía cạnh khác nhau của công pháp cũng như tư pháp quốc tế, liên quan tới tất cả các bên trên thế giới, tới việc kiểm tra các hệ thống pháp lý khác nhau, các thực tiễn quốc gia đa dạng cũng như hoạt động nội bộ của các tổ chức quốc tế. Tòa đã chứng tỏ vấn đề không phải ở chỗ các vụ tranh chấp đưa ra trước tòa có tầm quan trọng đặc biệt hay không mà chính là thông qua việc giải quyết các tranh chấp, tòa cùng các cơ quan chính khác của liên hợp quốc thúc đẩy quá trình duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và phát triển các quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
2.chức năng và vai trò của tòa án công lý quốc tế:
Tòa án công lý quốc tế có hai chức năng chính là giả quyết tranh chấp và đưa ra kết luận tư vấn.
─chức năng giải quyết tranh chấp: tòa án công lý quốc tế là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh giữa chủ thể là các quốc gia. tòa là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên liên hợp quốc. Các quốc gia không phải là thành viên liên hợp quốc nhưng muốn tham gia quy chế tòa án công lý quốc tế và đưa tranh chấp ra tòa thì phải thỏa mãn những điều kiện do đại hội đồng quyết định trong từng trường hợp cụ thể theo kiến nghị của hội đồng bảo an. Tòa án công lý quốc tế có những thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia nhưng thẩm quyền này không phải đương nhiên mà phải dựa trên sự đồng ý rõ ràng của các bên tranh chấp.
─chức năng đưa ra kết luận tư vấn: ngoài chức năng giải quyết tranh chấp quốc tế, tòa án công lý quốc tế còn thực thi một chức năng quan trọng khác là đưa ra các kết luận tư vấn được xác định theo điều 96 hiến chương liên hợp quốc. Tòa thực hiện chức năng đưa ra kết luận tư vấn khi đại hội đồng hay hội đồng bảo an liên hợp quốc yêu cầu, liên quan đến những vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan này. Tất cả các cơ quan khác của liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn cũng được hỏi ý kiến tư vấn của tòa trong trường hợp được đại hội đồng liên hợp quốc cho phép. Các quốc gia không có quyền đưa ra kết luận tư vấn về các tranh chấp của mình. Các ý kiến tư vấn của tòa chỉ mang tính chất khuyến nghị.
3.thực tiễn hoạt động của tòa từ khi thành lập đến nay, những hạn chế cũng như những đóng góp của tòa trong các lĩnh vực của luật quốc tế:
Kể từ khi được thành lập đến nay,trong thực tiễn hoạt động của tòa đã có 148 vụ tranh chấp được đưa ra trước tòa(tính đến tháng 6/2010), trong đó có khoảng 120 vụ tranh chấp đã được tòa phân xử. Trong số 148 vụ tranh chấp mà tòa có thẩm quyền giải quyết, 1/3 thông qua điều khoản thỏa thuận trong điều ước quốc tế, 1/3 qua cơ chế tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của tòa và 1/3 theo cơ chế chấp nhận thẩm quyền của tòa theo từng vụ việc. Nhiều phán quyết của tòa án công lý quốc tế đã có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ dàn xếp được tranh chấp mà còn tạo ra các quy phạm tập quán mới hoặc là cơ sở để hình thành quy phạm điều ước quốc tế mới, qua đó đóng góp cho sự phát triển của luật quốc tế như phán quyết vụ eo biển corfu giữa anh-albani năm 1947 liên quan đến quyền đi qua eo biển quốc tế, phán quyết vụ ngư trường Anh- Nauy năm 1951 liên quan đến đường cơ sở thẳng, phán quyết vụ thềm lục địa biển bắc năm 1969 liên quan đến nguyên tắc công bằng trong phân định biển…bên cạnh các phán quyết, tòa án công lý quốc tế đã đưa ra hơn 20 kết luận tư vấn. Mặc dù số kết luận tư vấn mà tòa đưa ra không nhiều và các kết luận đó cũng không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các chủ thể, nhưng nó đã có vai trò không nhỏ trong quá trình dàn xếp một số tranh chấp quốc tế, duy trì sự ổn định của quan hệ của quan hệ quốc tế và hơn cả là đóng góp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc tế. Ví dụ kết luận tư vấn ngày 4/5/1948 về các điều kiện để kết nạp một số quốc gia vào liên hợp quốc, kết luận tư vấn ngày 20/7/1962 về chi phí hoạt động của liên hợp quốc…
3.1.đóng góp trong các lĩnh vực chung của luật quốc tế:
Tòa án công lý quốc tế với sứ mệnh giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia và giúp đỡ các tổ chức quốc tế hoạt động một cách có hiệu quả, với việc duy trì công lý trong hoạt động của tòa đã có những đóng góp to lớn trong việc khẳng định vai trò của luật quốc tế trong quan hệ quốc tế cũng như việc phát triển của luật quốc tế. Tòa còn đóng vai trò hỗ trợ cho các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế khác, trong nhiều trường hợp tòa có thể đưa ra phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp tiếp tục đàm phán để đi đến giải pháp công bằng và lâu dài cho các bên. Các quyết định của tòa án không chỉ giới hạn trong việc giải thích và nhận thức quá trình phát triển của luật quốc tế. Trong nhiều trường hợp, chính tòa đã đóng góp vào quá trình phát triển đó. Bằng việc giải thích luật quốc tế thực định và áp dụng chúng vào các hoàn cảnh đặc thù, các quyết định của tòa đã làm sáng tỏ thêm luật quốc tế và qua đó phần nào mở đường cho các quốc gia phát triển tiếp nhận luật quốc tế. Đóng góp trong luật án lệ của tòa là rất lớn. Về vấn đề chủ thể của luật quốc tế, tòa đã có những cống hiến trong việc xây dựng các yếu tố hình thành nên quốc gia cũng như tổ chức quốc tế. Rất nhiều các phán quyết của tòa đã liên quan đến vấn đề lãnh thổ như các đảo minquiers và ecrehous, quyền mua lại trên lãnh thổ ấn độ, chủ quyền trên một số vùng đất(bỉ-hà lan), tranh chấp biên giới buốcskina phaso/mali, các hoạt động quân sự và bán quân sự tại nicaragoa và chống lại nicaragoa, tranh chấp biên giới đất liền, đảo và biển…qua tất cả những vụ việc đó tòa đã phát triển các lý luận về thụ đắc lãnh thổ, về nguyên tắc chiếm hữu thật sự và nguyên tắc uti possidetis và góp phần tích cực giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ. Cũng qua các vụ án trên tòa đã làm sáng tỏ thêm lý thuyết về quyền năng chủ thể, khẳng định tổ chức quốc tế là một chủ thể phát sinh của luật quốc tế.
Trong lĩnh vực phi thực dân hóa, tòa đã làm sáng tỏ jus cogens của nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết. Trong vụ các hệ quả pháp lý đối với các quốc gia, ở trường hợp từ việc tiếp tục hiện diện của nam phi tại Namibia(tây nam phi), tòa đã lên án các hành động được coi là vi phạm các mục tiêu và nguyên tắc của hiến chương liên hợp quốc. Trong lĩnh vực luật điều ước, tòa đã khẳng định nguyên tắc: tập quán và điều ước là hai nguồn độc lập, tương đương nhau của luật quốc tế; mọi văn kiện quốc tế cần phải được giải thích và áp dụng trong khuôn khổ hệ thống pháp lý có hiệu lực vào thời điểm tiến hành giải thích. Qua các vụ các đảo minquier et ecrehous, đền preah vihear, tranh chấp lãnh thổ libi-sat…tòa đã cũng cố lý thuyết về luật thời điểm và các vấn đề về thời điểm kết tinh tranh chấp, cũng như các khía cạnh của việc giải thích và áp dụng điều ước. Trong lĩnh vực luật kinh tế, tòa cũng có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ đầu tư nước ngoài giải thích luật áp dụng và nêu ra những thiếu sót cũng như phương cách bổ sung, qua đó thúc đẩy quá trình pháp điển hóa. Tòa đã căn thiệp tới những vấn đề về bảo hộ ngoại giao, vai trò của các công ty và mối quan hệ giữa chúng với các nhà nước trong các vụ Ambatelios, nottebohm, công ty đầu lửa Anh-Iran…trong lĩnh vực luật môi trường, tòa cũng có nhiều đóng góp trong việc xác định các nguyên tắc điều chỉnh trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia.các phán quyết của tòa về quy thuộc trách nhiệm cho một quốc gia(phái đoàn ngoại giao và lãnh sự Mỹ tại têhêran, các hoạt động quân sự tại nicoragoa và chống lại nicoragoa) đóng vai trò không nhỏ trong quá trình pháp điển hóa các nguyên tắc liên quan tới trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia đối với các hành vi bất hợp pháp quốc tế. Các phán quyết của tòa về các lĩnh vực khác như đe dọa hoặc sử dụng vú khí hạt nhân, quyền quá cảnh, quyền tị nạn…đã làm rõ thêm vai trò của tòa án trong quá trình phát triển luật quốc tế. Qua các đóng góp trên của tòa án công lý quốc tế chúng ta thấy đóng góp lớn nhất, hiệu quả nhất, hệ thống nhất là trong lĩnh vực luật biển, một lĩnh vực phức tạp nhiều đổi mới và đã trải qua một quá trình pháp điển hóa đầy trắc trở, lâu dài và gay go. Đây cũng là lĩnh vực mà hiện nay có rất nhiều tranh chấp.
3.2.đóng góp trong lĩnh vực luật biển:
Các bản án trọng tài và phán quyết của pháp viện thường trực quốc tế cũng như tòa án công lý quốc tế về lĩnh vực luật biển chiếm một tỷ trọng đáng kể. Sẽ không đúng khi nói rằng các phán quyết của tòa đã đưa đến kết quả làm thay đổi hẳn hệ thống các nguyên tắc của luật biển quốc tế. Nhưng có một điều mà được nhiều quốc gia thừa nhận rằng: luật biển hiện đại đã được hiểu thêm rất nhiều do luật xét xử mà tòa mang lại.
─trong vấn đề quy chế pháp lý của eo biển quốc tế:
Phán quyết đầu tiên của tòa là một phán quyết về biển, vụ eo biển corfou. Trong phán quyết năm 1949 này, tòa đã góp phần làm sáng tỏ khái niệm pháp lý eo biển quốc tế và nguyên tắc quyền qua lại không gây hại qua eo biển quốc tế. Tòa cho rằng các quốc gia vào thời kỳ hòa bình có quyền cho các tàu chiến của họ đi lại qua các eo biển quốc tế mà không phải báo trước, quốc gia ven biển không được cản trở việc thực hiện quyền này nếu các tàu chiến không làm gì ảnh hưởng đến hòa bình an ninh trật tự, chủ quyền và các quyền tài phán khác của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển phải có nghĩa vụ thông báo cho tàu thuyền qua lại eo biển về bất kỳ mối nguy hiểm nào như xác tàu đắm, mìn, đá ngầm…quyền này được công ước giơ ne vơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958 công nhận và sau đó được phát triển, điều chỉnh trở thành quyền quá cảnh qua các eo biển quốc tế ghi trong công ước của liên hợp quốc về luật biển năm 1982( phần II, mục 3-quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải; phần III-các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế). Tòa đã có dịp trở lại vấn đề quy chế của eo biển quốc tế trong vụ quyền qua lại eo biển Great do phần lan kiện đan mạch trước tòa. Sau khi yêu cầu chỉ ra các biện pháp bảo đảm của phần lan bị tòa bác bỏ, hai nước dã thành công trong việc đàm phán giải quyết vấn đề: đan mạch đòng ý trả cho phần lan một khoản tiền bồi thường do việc thiết kế dàn khoan để có thể đi qua được dưới cầu bắc qua eo biển. Vụ việc đã được gạch bỏ khỏi danh sách các vụ kiện trước tòa làm tòa không có dịp phát triển lý luận về quyền tự do, quá cảnh qua các eo biển quốc tế, một vấn đề lớn của luật biển quốc tế hiện nay.
─trong vấn đề về việc hình thành quy chế pháp lý của đường cơ sở thẳng:
Trong vụ ngư trường nghề cá, Anh đã tranh cãi về giá trị pháp lý của sắc lệnh năm 1935 của Nauy về đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Năm 1951 của tòa án công lý quốc tế đã ra phán quyết, tòa công nhận việc phân định của nauy dựa trên kỹ thuật đường cơ sở thẳng không trái với pháp luật quốc tế. Các nguyên tắc áp dụng đường cơ sở thẳng năm 1935 của nauy đã trở thành các tiêu chuẩn mới của luật quốc tế, thể hiện trong công ước giơnevơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958 điều 4 và công ước 1982, điều 7. ngày nay,đường cơ sở thẳng đã trở thành một quy phạm mang tính điều ước và tập quán. Nó ra đời cũng xuất phát từ hoạt động phán quyết của tòa án công lý quốc tế.
─Vấn đề đóng góp về khái niệm thềm lục địa:
Mặc dù đã được đề cập trong tuyên bố Truman năm 1945 và công ước giơnevơ năm 1958, nhưng khái niệm cũng như bản chất pháp lý của thềm lục địa đã được làm sáng tỏ nhất trong phán quyết thềm lục địa biển bắc năm 1969 của tòa án công lý quốc tế. Trong phán quyết lịch sử của mình, tòa đã khôi phục và phát triển thêm nguyên tắc kéo dài tự nhiên đã được tuyên bố Truman và công việc chuẩn bị ủy ban luật quốc tế cho hội nghị lần thứ nhất của luật quốc tế về luật biển đề cập. Tòa thừa nhận các điều 1 và 3 của công ước giownevơ năm 1958, tạo thành cơ sở chế độ pháp lý của thềm lục địa, là một nguyên tắc có tính tập quán của luật quốc tế. Đối với tòa án không phải tính tiếp giáp cũng không phải tính kế cận có thể minh chứng cơ bản cho việc mở rộng thẩm quyền quốc gia trên thềm lục địa nằm ngoài lãnh hải, mà chính là khái niệm sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển đã mang lại danh nghĩa quyền chủ quyền cho quốc gia ven biển trên phần thềm lục địa đó. Bằng lập luận của mình tòa đã chỉ rõ bản chất, nguồn gốc pháp lý của thềm lục địa, tòa đã nêu được nguyên tắc: “đất thống trị biển” và từ đó nguyên tắc thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển được thừa nhận.
─Vấn đề đóng góp về vịnh lịch sử:
Trong phán quyết ngư trường nauy, tòa án công lý quốc tế đã cố gắng định nghĩa thế nào là vịnh, thế nào là vịnh lịch sử. Các định nghĩa của tòa về vịnh đã đi vào điều 10 của công ước liên hợp quốc về luật biển năm 1982.
─Vấn đề đóng góp trong việc xây dựng các quy định về các vùng đánh cá và vùng đặc quyền kinh tế:
Trong vụ thẩm quyền nghề cá năm 1974, tòa đã có điều kiện để phát triển các khái niệm về nghề cá. Phán quyết của tòa xảy ra khi hội nghị luật biển lần thứ 3 đã bắt đầu và khái niệm vùng đặc quyền kinh tế đang trở thành một khái niệm mang tính tập quán nên đã không có tiếng vang lớn. Tuy nhiên trong các phán quyết thềm lục địa libi/manta năm 1985, phân định biển trong vịnh maine 1984 và phân định biển trong khu vực giữa Groenland và Jan Mayen 1993, tòa đã có dịp làm đầy đủ thêm khái niệm vùng đặc quyền kinh tế, nhất là trong quan hệ với thềm lục địa.
─Về vấn đề đóng góp về phân định biển:
Công ước liên hợp quốc về luật biển năm 1982 đã có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. việc có hiệu lực của công ước đã đặt ra một trật tự pháp lý mới trên biển và việc phân chia lại các nguồn tài nguyên biển cả. Công ước đã đặt ra một nhiệm vụ mới đó là việc xác định các đường biên giới biển.
Là một cơ quan của liên hợp quốc, có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan khác của liên hợp quốc trong việc giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, tòa đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình và có những đóng góp không nhỏ vào việc hát triển và hoàn thiện luật quốc tế. Những phán quyết hợp lý và hợp pháp của tòa là cơ sở để lựa chọn khi xây dựng các quy phạm của luật quốc tế sau này, có thể nói hoạt động của tòa có ảnh hưởng rất lớn trong việc xây dựng luật quốc tế, và quan trọng hơn nữa là tòa đã thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên năng lực của tòa vẫn chưa được khai thác đầy đủ. Năng lực này bị hạn chế do cả sự tham gia chưa tích cực của các quốc gia vào công việc của tòa cũng như do chính tầm quan trọng của những vụ việc tòa giải quyết. Những vấn đề đưa ra trước tòa thường là những vấn đề không lớn, ví dụ: các vụ tai nạn máy bay những năm 1950, vụ Electronica Sicala…những vụ mà tòa xét xử không phải là những vụ tranh chấp biên giới lãnh thổ lớn. Có nhiều vụ tranh chấp lớn đã không được giải quyết bằng con đường tài phán như tranh chấp casomia giữa Ấn độ và Pkixtan, tranh chấp tây tạng giữa Ấn độ và Trung quốc…mỗi khi giải quyết một vấn đề lớn của luật quốc tế có tầm quan trọng về kinh tế và chính trị như: tây nam phi, các vụ thử vũ khi ha