Công ty cổ phần là một trong nhưng loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật doanh nghệp năm 2005, Với mô hình loại doanh nghiệp này có những ưu điểm và nhược điểm riêng so với các loại doanh nghiệp còn lại, Mặt khác doan nghiệp muốn tồn tại và phát triển được phải có vốn, vốn có vai trò quan trọng trong hoạt động của doang nghiệp. Qua việc tìm hiểu về đề tài Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần. Sẽ giúp cho chúng ta hiểu được một cách cơ bản về vấn vốn được pháp luật thực tại quy định như thế nào qua đó có cách nhìn và định hướng lựa chọn mô hình doanh nghiệp để kinh doanh cũng như phục vụ kiến thức cho nghề nghiệp sau nay. Do vậy em đã chọn đề tài này.
17 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2138 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ BÀI
Công ty cổ phần là một trong nhưng loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật doanh nghệp năm 2005, Với mô hình loại doanh nghiệp này có những ưu điểm và nhược điểm riêng so với các loại doanh nghiệp còn lại, Mặt khác doan nghiệp muốn tồn tại và phát triển được phải có vốn, vốn có vai trò quan trọng trong hoạt động của doang nghiệp. Qua việc tìm hiểu về đề tài Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần. Sẽ giúp cho chúng ta hiểu được một cách cơ bản về vấn vốn được pháp luật thực tại quy định như thế nào qua đó có cách nhìn và định hướng lựa chọn mô hình doanh nghiệp để kinh doanh cũng như phục vụ kiến thức cho nghề nghiệp sau nay. Do vậy em đã chọn đề tài này.
B. NỘI DUNG
I. / KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm: Công ty cổ phần là là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về khoản nọe của công ti cho đến hết giá trị cổ phần của họ sở hữu.
2. Đặc Điểm:
Công ty cổ phần có những đăc điểm cỏ bản dựa vào đó chúng ta phân biệt với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh những đặc điểm đó là:
- Về thành viên công ty: trong suốt qua trình hoạt động ít nhất phải có ba thành viên tham gia công ty cổ phần, là loại hình đặc trưng cho công ty đối vốn, cho nên có sự liên kết giữa các thành viên và vì vậy các quy định về số thành viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong máy trăm năm tồn tại của công ty cổ phần, ở hầu hết các nước đều có quy định số thành viên tối thiểu này của công ty cổ phần.
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và đươc phản ánh trong cổ phiếu.
- Tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: Phần vốn góp của các thành viên đươc thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hóa. Người có cổ phiếu có thể chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
- Về vấn đề trách nhiệm: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghãi vụ sản khác của công ty trong phạm vi vốn đã góp vào cồn ty.
- Trong qua trình hoạt động, công ty cổ phần còn có quyền phát hành chứng khoán( cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán và huy động vốn, Điều này thể hiện khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm và đặc điểm
1.1/ Khái niệm
- Vốn: khái niệm vốn nói chung được nhiều ngành khoa học tiếp cận theo nhiều phương diện và phạm vi khác nhau. Trong khoa học tài chính, vốn của doanh nghiệp (cũng như của CTCP) được quan niệm là vốn kinh doanh, là giá trị của toàn bộ tài sản(đại lượng bằng tiền) được đầu tư vào hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Vốn là cơ sở vật chất không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp.
- Quy chế pháp lý về vốn trong CTCP
+ Xét về mặt khách quan, tất cả những quy phạm pháp luật liên quan đến vốn của CTCP đã hình thành một “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP”. Do đó có thể định nghĩa: “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP” là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình góp vốn, quản lý sử dụng vốn, chuyển nhượng vốn và những vấn đề khác liên quan đến sự thay đổi vốn của CTCP.
+ Xét theo nghĩa chủ quan, trên cơ sở những quy định của pháp luật, trong quá trình tổ chức, quản lý, điều hành công ty các chủ sở hữu công ty có thể cùng nhau xây dựng một hệ thống quy tắc điều chỉnh quan hệ mang tính chất nội bộ trong quá trình quản lý, sử dụng vốn của công ty. Như vậy, dưới góc độ này, “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP” là tổng hợp những quy tắc thể hiện ý chí, quyền tự định đoạt của nhà đầu tư vốn đối với những vấn đề liên quan đến vốn và tài sản của CTCP.
1.2/ Đặc điểm
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể thấy “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP” có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, nó vừa thể hiện ý chí của Nhà nước vừa thể hiện ý chí của nhà đầu tư vốn. Bởi lẽ, trên cơ sở những quy phạm pháp luật, những chuẩn mực pháp lý do Nhà nước ban hành, các nhà đầu tư cùng thoả thuận để xây dựng nên những quy tắc mang tính chấp nội bộ trong quá trình quản lý, sử dụng vốn của công ty.
- Thứ hai, nó quy định quyền và nghĩa vụ của công ty, của các thành viên công ty đối với vốn và tài sản của công ty.
- Thứ ba, nội dung chủ yếu của quy chế pháp lý về vốn trong CTCP được thể hiện chủ yếu và cụ thể trong điều lệ công ty, bao gồm những nội dung cơ bản như: cấu trúc vốn, chủ thể góp vốn, huy động vốn, vấn đề chuyển nhượng cổ phần, các trường hợp tăng, giảm vốn của công ty ...
2. Cấu trúc vốn trong CTCP
Xét về phương diện cấu trúc, vốn của doanh nghiệp nói chung và của CTCP nói riêng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cấu trúc vốn là đặc điểm cơ bản nhất tạo nên bản chất pháp lý của CTCP.
Dưới góc độ tài chính doanh nghiệp, cấu trúc vốn của công ty nói chung và CTCP nói riêng bao gồm: vốn cố định và vốn lưu động.
Nhìn từ góc độ pháp lý, cấu trúc vốn của doanh nghiệp gồm: vốn điều lệ và vốn vay.
2.1/ Vốn điều lệ
Vốn điều lệ của CTCP là số vốn do các cổ đông góp hoặc cam kết góp và được ghi vào Điều lệ công ty.
Vốn điều lệ của CTCP được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và được phản ánh trong cổ phiếu. Vốn điều lệ của công ty có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với những tính chất pháp lý khác nhau. Cụ thể đó là:
- Cổ phần phổ thông: đây là loại cổ phần bắt buộc phải có của CTCP. Cổ phần phổ thông tạo cho người nắm giữ nó các quyền lợi về kinh tế và “quyền lực” trên cơ sở nguyên tắc đối vốn. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Tỷ suất cổ tức mà cổ đông phổ thông được hưởng phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Do đó, cổ đông phổ thông chỉ được trả cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Việc trả cổ tức cho cổ đông phổ thông cũng phải đảm bảo là ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn phải đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn. Ngoài ra, cổ đông phổ thông còn có các quyền khác như: quyền biểu quyết, quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông, được tự do chuyển nhượng cổ phần (trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập) ...Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty.
- Cổ phần ưu đãi: là loại cổ phần có tính chất pháp lý khác biệt so với cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi, được hưởng một số quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ thông và phải chịu một số hạn chế khác. Cổ phần ưu đãi có thể được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông nhưng cổ phần phổ thông không thể được chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi của CTCP bao gồm:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định. Người sở hữu loại cổ phần ưu đãi này gọi là cổ đông ưu đãi biểu quyết. Theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005 thì chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết trong CTCP. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong vòng 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không có quyền chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả số cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ đông phổ thông hoặc mức cổ tức hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Do đã được ưu đãi trong việc trả cổ tức nên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức bị hạn chế một số quyền như: không có quyền biểu quyết; quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông; quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Tuy nhiên, ngoài quyền ưu đãi về cổ tức, cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức còn có một số quyền như của cổ đông phổ thông, đó là quyền chuyển nhượng cổ phần; quyền đối với tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại khi công ty giải thể hoặc phá sản ...
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại: đây là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại (Điều 83 Luật doanh nghiệp 2005). Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi này có các quyền như cổ đông phổ thông và cũng bị hạn chế một số quyền như đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức.
+ Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Có thể thấy rằng, với cơ cấu vốn điều lệ có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với những tính chất pháp lý đa dạng, CTCP có thể thiết lập cơ chế góp vốn linh hoạt, đáp ứng được những nguyện vọng, yêu cầu khác nhau của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư có thể lựa chọn cách thức góp vốn phù hợp với điều kiện cụ thể và nhu cầu lợi ích của mình. Mặt khác, tính tự do chuyển nhượng của các cổ phần đã quy định cấu trúc “vốn mở” của CTCP. Với cấu trúc này, vốn của công ty có thể dễ dàng xã hội hoá, cơ cấu cổ đông có thể thay đổi uyển chuyển, linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty. Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc hình thành thị trường vốn mà đỉnh cao là thị trường chứng khoán.
2.2/ Vốn vay
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng đối với các công ty đang trong tình trạng khó khăn về tài chính hay công ty muốn thay đổi quy trình công nghệ cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Vốn vay là nguồn vốn huy động từ bên ngoài bằng các hình thức khác nhau như: vay ngân hàng; vay của các tổ chức, cá nhân khác ... và phát hành trái phiếu.
Nguồn vốn vay bằng hình thức trái phiếu có vị trí quan trọng và thể hiện rõ ưu thế của CTCP so với nhiều hình thức doanh nghiệp khác.
Tóm lại, cấu trúc vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Nguồn vốn của công ty phải đáp ứng được một cách đích thực cho quá trình đầu tư, phát huy được vai trò và ý nghĩa trong hoạt động kinh doanh của công ty. Các nhà đầu tư cần chú trọng đến tỷ lệ, mối tương quan về mặt giá trị giữa các loại vốn sao cho thật phù hợp, tạo khả năng mạnh mẽ nhất để công ty đạt lợi nhuận tối đa và có nền tài chính lành mạnh phù hợp với quy định của pháp luật.
3. Chủ thể góp vốn
Tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân. Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 đã quy định: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Trên cơ sở của Hiến pháp, khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này...”.
Kinh doanh là một hoạt động hết sức khó khăn và phức tạp, chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó có các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu... Do vậy, mặc dù pháp luật thừa nhận quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, song không phải mọi chủ thể đều có thể thực hiện quyền năng này, khoản 2 Điều 13 đã quy định một số đối tượng không được thành lập và quản lý doanh nghiệp nói chung cũng như CTCP nói riêng.
Chủ thể góp vốn vào CTCP sẽ trở thành cổ đông của công ty. Khi đã trở thành cổ đông của công ty, họ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
Khi tiếp nhận vốn góp của các nhà đầu tư, công ty cũng cần xem xét những trường hợp tổ chức, cá nhân không được mua cổ phần của CTCP tại Khoản 4 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005, đó là: cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
4. Tài sản góp vốn
Tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền tài sản khác.
Theo quy định tại Điều 89 Luật doanh nghiệp 2005, các tài sản góp vốn vào CTCP bao gồm các loại: tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác theo quy định tại Điều lệ công ty. Những tài sản góp vốn vào CTCP này phải được thanh toán đủ một lần (Điều 89 Luật doanh nghiệp 2005).
5. Vấn đề chuyển nhượng cổ phần
Khi đã góp vốn vào CTCP, nhà đầu tư trở thành cổ đông của công ty. Sau đó, vì một lý do nào đó họ không muốn tiếp tục quá trình đầu tư vào công ty nữa và muốn thu hồi lại số vốn đã góp vào công ty.
Nhằm đảm bảo quá trình vận động vốn của CTCP luôn linh hoạt, lành mạnh, đáp ứng được yêu cầu của quá trình đầu tư cũng như lợi ích của mỗi thành viên trong công ty, Luật doanh nghiệp đã quy định vấn đề chuyển nhượng vốn một cách khá chặt chẽ và chi tiết. Bản chất của việc chuyển nhượng vốn là thành viên công ty thực hiện hành vi làm chấm dứt quyền sở hữu đối với những cổ phần thuộc sở hữu của mình, đồng thời chấm dứt những trái quyền phát sinh từ số cổ phần đó.
Việc chuyển nhượng cổ phần có thể được thực hiện bằng hai cách thức, đó là: chuyển nhượng cổ phần cho người khác và yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình.
5.1/ Chuyển nhượng cổ phần cho người khác
Theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005, cổ đông CTCP có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ hai trường hợp sau:
- Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết:
Khoản 3 Điều 81 quy định: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác”.
Như vậy, nếu muốn chuyển nhượng những cổ phần này, người sở hữu cổ phàn phải chuyển đổi từ cổ phần ưu đãi biểu quyết sang cổ phần phổ thông.
- Đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập:
Việc chuyển nhượng đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế một phần, cụ thể là: trong ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Số cổ phần này có thể được tự do chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập của công ty nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông và người chuyển nhượng sẽ không được biểu quyết việc chuyển nhượng này. Sau thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hạn chế này đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập mới được bãi bỏ.
Quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông có quyền chào bán là quy định bắt buộc để ràng buộc nghĩa vụ vật chất của các cổ đông sáng lập đối với người mua, tránh tình trạng tuyên truyền lừa đảo để thu hút người mua.
Qua những quy định trên, ta có thể thấy rằng việc chuyển nhượng vốn trong CTCP được thực hiện tương đối dễ dàng, thuận tiện cho các nhà đầu tư. Đó cũng chính là một trong những ưu điểm nổi trội của CTCP so với các loại hình công ty khác.
5.2/ Yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Mua lại phần vốn góp của một thành viên nào đó trong công ty thực chất là việc công ty thu hồi lại một số cổ phần đã phát hành và trả cho cổ đông đó một số tiền tương ứng với giá trị số cổ phần mà cổ đông yêu cầu công ty mua lại. Số cổ phần công ty mua lại sẽ trở thành cổ phần chưa bán trong số cổ phần được chào bán. Yêu cầu công ty mua lại cổ phần là một quyền quan trọng của cổ đông, nhất là đối với những cổ đông thiểu số, họ có thể sử dụng quyền này như một công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng do việc mua lại cổ phần có thể ảnh hưởng tới vốn điều lệ công ty, nên cổ đông chỉ có thể thực hiện quyền đó những trường hợp nhất định. Điều 90 Luật doanh nghiệp đã quy định: “Cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình ...”. Yêu cầu này phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ những nội dung sau: tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán và lý do yêu cầu công ty mua lại cổ phần. Đơn yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định về những vấn đề trên.
Trong thời hạn 90 ngày, công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông. Trường hợp không thoả thuận được về giá thì cổ đông đó có thể bán cổ phần cho người khác hoặc nhờ tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá.
Như vậy, cũng như trường hợp chuyển nhượng cổ phần cho người khác, nếu công ty đáp ứng được yêu cầu mua lại cổ phần của cổ đông thì sau khi thủ tục mua lại được hoàn tất, cổ đông đó sẽ chấm dứt tư cách chủ sở hữu đối với số cổ phần đã được công ty mua.
6. Các trường hợp thay đổi vốn của CTCP
Sự thay đổi vốn của CTCP là sự điều chỉnh về vốn trong công ty, có thể tăng lên hoặc giảm đi so với số vốn ban đầu. Có nhiều lý do để một công ty quyết định thay đổi vốn trong quá trình hoạt động, như chịu sự tác động của nền kinh tế, sự tác động của yếu tố thị trường hay do chính nhu cầu kinh doanh của công ty. Đối với CTCP, với một cấu trúc vốn uyển chuyển và linh hoạt như đã trình bày ở trên, công ty sẽ có nhiều điều kiện lựa chọn những biện pháp thích hợp để điều chỉnh nguồn vốn của mình, để có được một cơ cấu vốn tốt nhất, phù hợp với quy mô sản xuất, kinh doanh của công ty, đáp ứng được nhu cầu tồn tại, phát triển, đảm bảo thu được lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Việc thay đổi vốn hoàn toàn là một quyền quyết định chủ động của công ty, nhưng để đảm bảo tránh sự lạm dụng quyền hạn trên của công ty trong quá trình quản lý sử dụng vốn, từ đó gây thiệt hại cho cổ đông công ty và cho xã hội, pháp luật đã có những quy định những trường hợp công ty có quyền tăng, giảm vốn. Vấn đề này được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật như: Luật doanh nghiệp 2005, Luật chứng khoán, Nghị định của Chỉnh phủ số 52/2006/NĐ-CP về pháp hành trái phiếu doanh nghiệp.
6.1/ Các trường hợp tăng vốn của công ty
Với một cấu trúc “vốn mở”, pháp luật quy định một cơ chế huy động vốn đa dạng, năng động với những phương thức khác nhau nhằm tạo điều kiện pháp huy tối đa thế mạnh của CTCP trong việc huy động vốn đầu tư. Việc huy động vốn của CTCP được xác định theo hai trường hợp sau:
- Tăng vốn vay của CTCP:
+ Vay vốn của các tổ chức tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng, vay của các tổ chức, cá nhân khác ... Nguồn vốn vay có thể ngắn hạn, trung hoặc dài hạn, có thể có bảo đảm hoặc không bảo đảm.
+ Ngoài ra, theo Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005, CTCP còn có thể tăng vốn vay bằng cách phát hành trái phiếu.
Theo Điều 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp: “Trái phiếu doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là trái phiếu) là một loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu”. Về bản chất pháp lý, trái phiếu là một loại chứng chỉ xác nhận nợ của người phát hành đối với người sở hữu nó. Theo quy địn