“Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” (Điều 49 BLTTHS năm 2003 ) và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét cử sơ thẩm.
“Bị cáo là người bị toà án tuyên quyết định đưa ra xét xử” (Điều 50 BLTTHS năm 2003 ). Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2372 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trọng tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” (Điều 49 BLTTHS năm 2003 ) và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét cử sơ thẩm.
“Bị cáo là người bị toà án tuyên quyết định đưa ra xét xử” (Điều 50 BLTTHS năm 2003 ). Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.
1) Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý của bị can.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can.
Theo khoản 2 Điều 9 BLTTHS : “ Bị can có quyền: a) Được biết mình bị khởi tố về tội gì; b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; c) Trình bày lời khai; d) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đ) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; e) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; g) Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm định chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; h) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”
Theo Khoản 3 Điều 49 BLTTHS “Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.”
2) Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý của bị cáo.
2.1Những quy định về quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
Khoản 2 Điều 50 BLTTHS năm 2003 “ Bị cáo có quyền: a) Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án , quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác nhau theo quy định của Bộ luật này; b) Tham gia phiên tòa; c) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; d) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; e) Tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa; g) Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; h) Nói lời sau cùng trước khi nghị án; i) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”
Theo quy định tại khoản 3 Điều 50 BLTTHS quy định: “ Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.”
HƯỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
1) Luật tố tụng hình sự được coi là luật hình thức (quy định về những trình tự, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự) nên về nguyên tắc các quy định càng chi tiết, cụ thể càng tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng cũng như người tuân thủ và chấp hành pháp luật.
Có thể phân chia các quy định hiện hành về bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng Hình sự thành các nhóm sau đây:
- Các quy định về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo;
- Các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng liên quan tới bị can, bị cáo;
- Các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của người bào chữa;
- Các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tham gia tố tụng khác liên quan tới bị can, bị cáo.
Để tố tụng hình sự đạt hiệu quả cao, theo em, Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bị can, bị cáo cần được tiến hành theo hướng các quy định đó phải cụ thể và chi tiết hơn nữa để bất kỳ ai kể cả người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác đều hiểu đúng và thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Hiện nay, có không ít các quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 vì chưa quy định cụ thể nên dẫn tới những cách hiểu khác nhau và sự không thống nhất khi áp dụng các quy định đó trong thực tiễn. Thí dụ khi quy định về biện pháp ngăn chặn là tạm giam, Điều 88 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã quy định như sau:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
Quy định trên đây thực chất vẫn là một quy định tuỳ nghi, việc quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp tạm giam hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá của người tiến hành tố tụng hoặc cơ quan tiến hành tố tụng trong khi sự đánh giá đó nhiều khi mang tính chủ quan áp đặt. Thí dụ, khi một người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc một tội nghiêm trọng trước khi người này có hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc phạm tội mới thì căn cứ vào đâu để cho rằng người này sẽ thực hiện các hành vi đó để ngay lập tức phải áp dụng biện pháp tạm giam với họ. Thông thường trong những trường hợp này, Điều tra viên hoặc Cơ quan điều tra, để công việc điều tra được thuận lợi đều xin Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh tạm giam trong khi không đưa ra được những căn cứ bị can sẽ bỏ trốn, sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng hay sẽ tiếp tục phạm tội. Có không ít trường hợp khi Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh tạm giam thì Cơ quan điều tra “mặc cả” với Viện kiểm sát rằng, nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn mà bị can bỏ trốn thì Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm?. Đưa ra tình huống trên đây em muốn khẳng định một điều là để tránh tình trạng hiểu và áp dụng không thống nhất các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về nghĩa vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng liên quan tới bị can, bị cáo thì các quy định đó cần phải được quy định tỉ mỉ, chi tiết, dễ hiểu hơn. Nghiên cứu các điều luật của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng thì thấy các quyền năng tố tụng của những người và những cơ quan nói trên được quy định tương đối chi tiết, cụ thể trong khi trách nhiệm và nghĩa vụ trong tố tụng hình sự của họ lại quy định quá sơ sài, không cụ thể và đặc biệt là rất khó thực hiện.
2) Trong thực tế, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra có liên quan trực tiếp tới việc xác định bị can, bị cáo có tội hay không có tội, nên sự có mặt của họ trong các hoạt động tố tụng nói trên là cần thiết, vừa có tác dụng bảo đảm sự vô tư của cơ quan tiến hành tố tụng vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Theo Điều 64 Bộ luật Tố tụng Hình sự, kết luận giám định là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. Trong một số vụ án, kết luận giám định như một chứng cứ bắt buộc phải có để làm cơ sở cho việc xác định có hay không có tội phạm xảy ra; vì vậy, cần bảo đảm cho bị can, bị cáo tiếp xúc với những thông tin liên quan tới vấn đề trưng cầu giám định và kết luận giám định. Hiện nay, trong nhiều vụ án, bị can không biết được Cơ quan điều tra có trưng cầu giám định hay không? Nếu có thì kết quả giám định thế nào? Để khắc phục tình trạng này cần sửa đổi, bổ sung Điều 155 quy định “trưng cầu giám định”, Điều 158 quy định “quyền của bị can và những người tham gia tố tụng đối với kết luận giám định” theo hướng: Khi quyết định trưng cầu giám định, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho bị can biết và bị can không những được thông báo nội dung mà còn được nhận bản kết luận giám định nếu trong bản kết luận giám định có những nội dung liên quan tới việc cáo buộc họ.
Trong số các quyền năng tố tụng của bị can, bị cáo thì quyền bào chữa gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa cho mình là quan trọng nhất. Những điều kiện nói trên được hình thành khi sửa đổi, bổ sung các điều luật quy định về bị can, bị cáo sẽ giúp họ một cách thiết thực khi thực hiện quyền tự bào chữa. Tuy nhiên, việc trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo từ phía người bào chữa gồm Luật sư, Bào chữa viên nhân dân rất quan trọng và trong nhiều vụ án là yếu tố quyết định để bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.
Cũng như các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã có nhiều ưu việt hơn so với trước đây. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đang gặp rất nhiều khó khăn từ việc nhận Giấy chứng nhận người bào chữa, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án đến thu thập chứng cứ về vụ án để kịp thời cung cấp cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong thực tế, chưa bao giờ và chưa có trường hợp nào cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa trong thời hạn luật định là ba ngày; Cơ quan điều tra có rất nhiều lý do từ chối hoặc kéo dài thời gian cấp Giấy chứng nhận người bào chữa nhưng không trả lời bằng văn bản; người bào chữa vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn trong việc sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án; người bào chữa không được gặp riêng bị can, bị cáo và thời gian gặp luôn bị trại tạm giam hạn chế bởi những quy định bất hợp lý trong Quy chế hoặc Nội quy của trại; các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các cá nhân không hợp tác hoặc không tạo điều kiện cho người bào chữa thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa mặc dù pháp luật tố tụng hình sự và Luật Luật sư đều quy định họ có nghĩa vụ, trách nhiệm giúp Luật sư tác nghiệp. Một số người cho rằng, tình trạng trên đây có thể được khắc phục khi các ngành ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành các điều luật quy định về người bào chữa trong Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tuy nhiên, em cho rằng khi các quy định về quyền của người bào chữa trong Bộ luật Tố tụng Hình sự đã tương đối cụ thể, dễ hiểu nhưng vẫn không được một số cán bộ thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thì các quy định đó cũng khó có thể được chấp nhận đưa vào các Thông tư của ngành hoặc liên ngành.
3) Qua so sánh các điều luật trong Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng liên quan tới bị can, bị cáo với các điều luật quy định về nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng thì thấy hoàn toàn trái ngược nhau.
+ Các quy định về nghĩa vụ của người tham gia tố tụng rất chi tiết (thí dụ Điều 58 Bộ luật Tố tụng Hình sự dành khoản 3 và 4 để quy định nghĩa vụ của người bào chữa và đặc biệt khoản 4 quy định rất cụ thể về hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật của người bào chữa là người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi Giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật);
+ Còn các quy định về nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng thì còn quá chung chung, khó thực hiện trong thực tế. Trong tố tụng hình sự, quyền của người này lại là nghĩa vụ của người khác và một người chỉ có thể thực hiện được các quyền năng tố tụng của mình khi người khác phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ trong tố tụng của họ (thí dụ bị can chỉ có thể thực hiện được quyền nhờ người khác bào chữa hoặc tự bào chữa của mình khi người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện nghĩa vụ cấp Giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư hoặc Bào chữa viên nhân dân kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia các buổi hỏi cung cũng như gặp gỡ bị can trong trại tạm giam nếu bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam).
Từ sự phân tích trên đây, em cho rằng, để nâng cao hiệu quả của tố tụng hình sự cần hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng liên quan tới bị can, bị cáo theo hướng cụ thể và chi tiết hơn. Về kỹ thuật lập pháp cần quy định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm liền với nhau trong cùng một điều luật là tốt nhất hoặc ngay sau điều luật quy định về quyền trong tố tụng của người nào đó cần có điều luật quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của họ đồng thời quy định hậu quả pháp lý của việc không thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm đó. Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự với tên gọi “người bào chữa” nhưng khoản 4 Điều 56 lại quy định về nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và không có quy định về hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đó (trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận thì phải nêu lý do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do). Sự bất hợp lý trong quy định trên có thể được coi là một trong những nguyên nhân của tình trạng Luật sư chậm được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa và khó khăn khi vào trại tạm giam tiếp xúc với bị can như báo giới phản ánh trong thời gian vừa qua.
4) Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, có thể thấy rằng nhà làm luật đã có một bước tiến mới so với trước đây khi hạn chế tới mức tối đa các quy phạm tuỳ nghi. Thí dụ: Điều 83 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 khi quy định những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt, Cơ quan điều tra phải thực hiện một số công việc nhất định (thay vì có thể thực hiện một số công việc như trước đây…)
Tuy nhiên, qua hơn 4 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 nói chung và các quy định về bị can, bị cáo nói riêng vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định đó cho phù hợp với xu thế dân chủ và nhu cầu nâng cao hiệu quả của tố tụng hình sự hiện nay. Xuất phát từ hoàn cảnh của những người bị tạm giam là không thể biết cần mời ai, không thể trực tiếp mời người bào chữa cho mình nên luật cần phải cho phép người đại diện hợp pháp hoặc người thân của họ thay mặt họ mời người bào chữa. Trong mọi trường hợp, bị can, bị cáo đều có thể từ chối người bào chữa nếu không đồng ý với việc làm của người đại diện hợp pháp hoặc người thân của mình. Để bảo đảm sự vô tư, khách quan trong các hành vi tố tụng và hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, cần thiết phải quy định trong một số trường hợp nhất định bắt buộc phải có mặt của bị can, bị cáo cùng với người bào chữa của họ. Tại các điều luật trong Chương XIII Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, giám định hoặc không có các quy định về sự có mặt của bị can, bị cáo hoặc chỉ có các quy định tuỳ nghi của pháp luật về quyền năng tố tụng nói trên của bị can, bị cáo. Thí dụ khoản 2 Điều 150 quy định: “…khi khám nghiệm, phải có người chứng kiến; có thể để cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm”; Điều 151 quy định: “Việc khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sỹ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến… khi cần thiết có thể triệu tập người giám định và phải có người chứng kiến” (không quy định về sự có mặt của bị can); khoản 2 Điều 153 quy định: “Khi tiến hành thực nghiệm điều tra phải có người chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể tham gia”.
Kết luận.
Để bị can, bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện được các quyền trong tố tụng hình sự cần có cơ chế tiếp nhận và giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự phù hợp và có hiệu quả. Với xu thế dân chủ hoá và hội nhập quốc tế nên cũng như hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về bị can, bị cáo trong Bộ luật Tố tụng Hình sự cần được hoàn thiện theo hướng bảo đảm cho nền tư pháp dân chủ hơn, nhân đạo hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật TTHS của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia,
Giáo trình luật TTHS khoa luật trường ĐH Quốc gia Hà Nội,
Giáo trình luật TTHS Việt Nam – trường ĐH Luật Hà Nội,
Diễn đàn sinhvienluat.vn và một số diễn đàn khác.