Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (KTTĐPB) gồm 8 tỉnh và thành phố là: Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc trong đó thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và quan hệ quốc tế của cả nước. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 15512,1 km2, chiếm 4,68% diện tích của nước. Dân số toàn vùng năm 2007 là 13,88 triệu dân, chiếm 16,3% dân số cả nước. Tỷ lệ đô thị hoá của vùng đạt khoảng 27,4 % (cả nước 24,8%).
Vùng KTTĐPB nằm trong lưu vực các sông lớn như sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình; phía Bắc giáp vùng Đông Bắc, phía Tây giáp vùng Tây Bắc là cửa ngõ thông thương với Trung Quốc; phía Nam giáp vùng Bắc Trung bộ là cửa ngõ thông thương với Lào và phía Đông giáp biển Đông. Trong vùng vừa có đồng bằng, trung du, miền núi và duyên hải; là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong cả nước và các quốc gia trên thế giới.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2953 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
1. Vị trí và tiềm năng phát triển
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (KTTĐPB) gồm 8 tỉnh và thành phố là: Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc trong đó thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và quan hệ quốc tế của cả nước. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 15512,1 km2, chiếm 4,68% diện tích của nước. Dân số toàn vùng năm 2007 là 13,88 triệu dân, chiếm 16,3% dân số cả nước. Tỷ lệ đô thị hoá của vùng đạt khoảng 27,4 % (cả nước 24,8%).
Vùng KTTĐPB nằm trong lưu vực các sông lớn như sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình; phía Bắc giáp vùng Đông Bắc, phía Tây giáp vùng Tây Bắc là cửa ngõ thông thương với Trung Quốc; phía Nam giáp vùng Bắc Trung bộ là cửa ngõ thông thương với Lào và phía Đông giáp biển Đông. Trong vùng vừa có đồng bằng, trung du, miền núi và duyên hải; là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong cả nước và các quốc gia trên thế giới.
Tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, khoáng sản, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học trong vùng hết sức đa dạng và phong phú. Hệ thống đô thị phát triển rộng khắp. Công nghiệp phát triển sớm, tập trung đội ngũ doanh nhân lớn. Nguồn nhân lực của Vùng KTTĐPB khoảng 7,48 triệu lao động (chiếm 17,6% tổng lao động – số liệu thống kê năm 2005), là nguồn lao động có chất lượng khá cao so với mức trung bình của cả nước, số lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học cao nhất so với các vùng khác, chiếm tới 32% cả nước. So với các vùng kinh tế khác, vùng KTTĐPB là nơi tập trung nhiều nhất các viện nghiên cứu, các trường đại học, có các trang bị hiện đại nhất cả nước. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước Việt Nam. Ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là nhân lực có đào tạo tốt, có điểm thi vào các trường đại học cao đẳng cao nhất nước và tỷ lệ sinh viên trên đầu người cao nhất nước.
Với 8 tỉnh có vị trí địa lý và không gian kinh tế liền kề, các tỉnh trong vùng có nhiều khả năng tạo ra sự liên kết kinh tế để bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Với vị trí địa lý cực kỳ quan trọng, có thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, vùng KTTĐPB là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật lớn nhất nước ta. Toàn vùng có lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật cao nhiều nhất cả nước: chiếm 72,4% cán bộ có trình độ trên đại học, số lao động đã qua đào tạo chiếm tới 29,5% lực lượng lao động xã hội của vùng. Trình độ văn hóa của dân cư cũng thuộc loại cao nhất cả nước.
Các ngành công nghiệp chủ chốt như sản xuất xi-măng, đóng tàu, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, luyện cán thép, điện tử, tin học, đóng tàu biển, chế biến lương thực, thực phẩm chất lượng cao... do các doanh nghiệp FDI của các nhà đầu tư nước ngoài quản lý, ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng sản phẩm. Vùng còn là trung tâm sản xuất năng lượng lớn nhất miền Bắc, là nơi sản xuất và xuất khẩu than đá lớn nhất nước với vùng mỏ than lộ thiên Quảng Ninh. Sản xuất điện năng có các nhà máy nhiệt điện lớn như Uông Bí, Phả Lại, Hòn Gai...
Vùng KTTĐ Bắc Bộ có dải đất chuyển tiếp giữa Miền núi trung du Bắc Bộ với Đồng bằng sông Hồng thuận thiện cho phân bố các khu công nghiệp, các đô thị mà không ảnh hưởng nhiều đến quỹ đất nông nghiệp.
Vùng KTTĐPB có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của cả nước; là vùng có đủ điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng, công nghiệp sử dụng công nghệ cao, phát triển khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, phát triển dịch vụ, du lịch.
2. Những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại
a. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội vùng
(1) Kinh tế của vùng tăng trưởng khá toàn diện với nhịp độ tăng năm sau cao hơn năm trước. Các tỉnh trong vùng đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với mức bình quân cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt 12,1% so với 10% trong giai đoạn 1996 - 2000 và cao gấp 1,61 lần so với mức bình quân chung của cả nước, trong đó nông nghiệp tăng 4,7%; công nghiệp tăng 14,8% và dịch vụ tăng 12,6%. GDP của vùng năm 2005 đạt 159,111 ngàn tỷ đồng (giá hiện hành), chiếm 18,99% GDP của cả nước so với năm 2000 đạt 70.769,8 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người đạt 780 USD, cao gấp 1,2 lần so với cả nước (640 USD).
Sự tăng trưởng của kinh tế vùng thời gian qua có đóng góp lớn của các ngành thuộc khu vực phi nông nghiệp. Tỷ trọng các ngành có năng suất lao động cao, chứa đựng hàm lượng công nghệ, chất xám cao ngày càng lớn và tỷ trọng các ngành có năng suất thấp giảm đi trong toàn bộ lao động xã hội, đánh dấu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bắt đầu đi vào chiều sâu và ngày càng có chất lượng hơn. Tỷ trọng ngành sản xuất vật chất tăng lên, năm sau cao hơn năm trước; tỷ trọng ngành dịch vụ có xu hướng giảm. Điều này chứng tỏ tỷ trọng sản xuất hàng hóa tăng lên làm cho độ mở của nền kinh tế lớn hơn và mức độ hội nhập kinh tế với bên ngoài ngày càng mạnh mẽ. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng diễn ra đồng thời; tỷ trọng của bộ phận kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nước ngoài tăng lên (mặc dù tương đối mờ nhạt); tỷ trọng của kinh tế nhà nước cũng có thể giảm xuống một cách tương đối song vai trò bảo đảm an toàn cho toàn bộ nền kinh tế vẫn được duy trì. Điều này phản ánh môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng hơn và việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tuy chậm nhưng đã bước đầu phát huy tác dụng.
Trong những năm qua, môi trường đầu tư được các tỉnh, thành phố trong vùng tích cực cải thiện thông thoáng, nhờ đó số lượng doanh nghiệp tăng lên khá nhanh, bình quân khoảng 17%/năm; nhiều doanh nghiệp ở các địa phương đang dần lớn mạnh, mở rộng quy mô sản xuất.
(2) Cơ cấu kinh tế của vùng KTTĐPB đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá góp phần lôi kéo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng đồng bằng sông Hồng.
Cơ cấu kinh tế của vùng đã có bước chuyển dịch tiến bộ. Trong thời kỳ 1995-2002 tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp tăng thêm được 4,46 điểm, tương ứng tỷ trọng nông lâm giảm được 4,46 điểm (nông, lâm, thủy sản giảm từ 15,42% xuống 10,96%; công nghiệp - xây dựng tăng từ 30,46% lên 41,67%; và dịch vụ giảm từ 54,12% xuống 47,37%.
Công nghiệp phát triển khá nhanh, trong 3 năm qua (2001 - 2003), giá trị gia tăng đạt mức tăng bình quân khoảng 12%; cơ cấu sản phẩm đã có những chuyển dịch tích cực (ngoài những sản phẩm công nghiệp truyền thống được củng cố và tăng liên tục (năm 2002 so với năm 1995 sản xuất động cơ gấp khoảng 3 lần, sản xuất thép gấp khoảng 8 lần, xi măng gấp 1,1 lần, than gấp 1,5 lần, sơn các loại gấp 2 lần, sản xuất điện thoại tăng gần 3 lần...), đã xuất hiện một số mặt hàng mới như lắp ráp ô tô, lắp ráp máy tính, công nghiệp phần mềm, vật liệu trang trí nội thất... (năm 2002 so với năm 1995 lắp ráp ô tô tăng khoảng 3 lần, sản phẩm công nghiệp phần mềm gấp vài chục lần, sản phẩm sành sứ nội thất gấp khoảng 4 lần,…).
Đến hết năm 2002, vùng KTTĐPB có 11 khu công nghiệp (KCN) được thành lập (chiếm khoảng 15% so với cả nước), với tổng diện tích khoảng 1704 ha (chiếm 11,3% so với cả nước). Các KCN có doanh thu khoảng 200 triệu USD (chiếm khoảng 13% so với cả nước) và thu hút 15.300 lao động (khoảng 5% so với cả nước). Là một trong 2 vùng có khu công nghệ cao và công nghiệp sản xuất phần mềm.
Công nghiệp nông thôn ở nhiều nơi phát triển mạnh, đặc biệt là các làng nghề có khởi sắc mới. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có trên 400 làng nghề, chiếm gần 1/3 số làng nghề của cả nước.
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có sự chuyển đổi mạnh về cơ cấu sản xuất cây trồng, mùa vụ, vật nuôi theo hướng hiệu quả, tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất nông nghịêp. Nông sản hàng hoá có bước phát triển khá, xuất hiện nhiều mô hình phát triển trang trại có thu nhập cao (khoảng 50 triệu đồng/ha). Ngoài việc đảm bảo an ninh lương thực; việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa, cây cảnh, nuôi trồng thuỷ sản đã có bước tiến bộ đáng kể (khoảng 4 nghìn ha trồng lúa năng suất thấp đã chuyển sang trồng cây ăn quả và 6 nghìn ha lúa bấp bênh do úng ngập chuyển sang nuôi trồng thủy sản, khu vực gần thành phố đã xuất hiện nghề nuôi bò sữa,...).
Các loại hình dịch vụ phát triển đa dạng và có nhiều lĩnh vực phát triển khá như thương mại, dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch, khách sạn, nhà hàng; dịch vụ tài chính, tiền tệ, ngân hàng, tư vấn,… Năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của vùng KTTĐPB đạt khoảng 3,27 tỷ USD (gấp khoảng 3 lần so với năm 1995); mức xuất khẩu bình quân đầu người gấp 1,19 lần mức bình quân cả nước và tăng lên đáng kể (từ 81,8 USD năm 1995 lên 250,9 USD năm 2002).
(3) Mức đóng góp vào thành quả chung của cả nước của vùng KTTĐ Bắc Bộ tiếp tục tăng. Năm 2002, so với cả nước, vùng KTTĐPB chiếm khoảng 19,4% về GDP, 21,66% về thu ngân sách, 19,58% về kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời nếu so với năm 1995, tỷ trọng của nhiều chỉ tiêu tổng hợp (về GDP, giá trị gia tăng công nghiệp, giá trị gia tăng nông nghiệp, giá trị gia tăng dịch vụ,..) của vùng KTTĐPB tăng hơn được khoảng 1 – 1,5%. Vùng KTTĐPB bước đầu đã phát huy được một số lợi thế so sánh, phát triển vượt trội và có tác động thúc đẩy cả vùng Đồng bằng sông Hồng cùng phát triển.
(4) Kết cấu hạ tầng được cải thiện đáng kể, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn (trong thời kỳ 1995 – 2002 chiếm khoảng 43,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) đã tập trung vào một số công trình then chốt, tạo ra những điều kiện thuận lợi khai thác tiềm năng của vùng.
Về hệ thống đường bộ: quốc lộ 1A là tuyến chiến lược quan trọng đã hoàn thành việc khôi phục, cải tạo nâng cấp từ Lạng Sơn về Hà Nội đi Ninh Bình đến Thanh Hoá, đạt tiêu chuẩn cấp III; quốc lộ 18, từ Bắc Ninh đi Bãi Cháy đã hoàn thành cơ bản việc nâng cấp đạt tiêu chuẩn cấp III. Đoạn Bãi Cháy – Mông Dương – Móng Cái đang triển khai nâng cấp đạt tiêu chuẩn cấp IV; việc nâng cấp quốc lộ 10 hoàn thành; đường Láng - Hoà Lạc hoàn thành giai đoạn I đạt tiêu chuẩn cấp I. Đã xây dựng mới các cầu như cầu Bình, Triều Dương, Tân Đệ, Tiên Cựu; đang xây dựng cầu Yên Lệnh, Thanh Trì, Bãi Cháy...; Các quốc lộ khác như 2B, 38, 39, 183, 12B, 21, 21B và 23 cũng được cải tạo. Giao thông nông thôn được phát triển khá mạnh (cải tạo khoảng 300 km, làm mới khoảng 150 km).
Về hệ thống các sân bay: trong vùng có 3 sân bay hiện đang khai thác là sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Cát Bi và sân bay Gia Lâm.
Sân bay Nội Bài đã được đầu tư đạt công suất 4 triệu hành khách/năm, có điều kiện mở rộng để đạt 6 triệu hành khách/năm.
Sân bay Cát Bi đang là sân bay nội địa hiện đảm nhận vai trò dự bị cho sân bay Nội Bài; dự kiến sẽ kéo dài đường hạ - cất cánh đạt khoảng 2800 mét dài, mở rộng nhà ga từ 4000 m2 lên 6000 m2; quy hoạch mở thêm đường bay khu vực và hướng tới xây dựng Cát Bi thành sân bay quốc tế.
Sân bay Gia Lâm chủ yếu phục vụ quân sự và dịch vụ trực thăng.
Về hệ thống cảng biển: đã mở rộng cảng Hải Phòng, đến năm 2002 thực tế hàng hoá thông qua cảng đã đạt 11,4 triệu tấn; cảng Cái Lân hiện đầu tư giai đoạn I đạt 1,1 triệu tấn. Đã hình thành đội tầu biển có tổng trọng tải trên 50 vạn DWT, thực hiện vận tải trên 2,4 triệu tấn (so với cả nước chiếm tỷ trọng gần 50% về phương tiện và 40% về khối lượng).
Về mạng lưới đường sắt: các tuyến đường sắt: Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Lạng Sơn, Hà Nội – Thái Nguyên và Hà Nội – Vinh đã được nâng cấp; hệ thống đường ray, tà vẹt đã được thay mới; các đường ngang, cầu, thông tin tín hiệu đã được sửa chữa đảm bảo an toàn chạy tàu.
Về mạng lưới đường sông: trong những năm qua đường sông đã được đầu tư và quản lý, khai thác tốt hơn (trong đó có tuyến Đáy – Ninh Phúc; tuyến Lạch Giang – Hà Nội; tuyến Quảng Ninh – Phả Lại – Việt Trì; tuyến Quảng Ninh – Hải Phòng – Ninh Bình). Các cảng sông đã được nâng cấp để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, rõ nhất là cụm cảng Hà Nội, Ninh Phúc, Việt Trì.
Mạng bưu chính, viễn thông: Mạng lưới bưu chính viễn thông vùng KTTĐPB được chú trọng đầu tư, phát triển nhanh, rộng khắp đến hầu hết các xã với công nghệ, kỹ thuật số hiện đại, đáp ứng nhu cầu thông tin, phục vụ các ngành kinh tế - xã hội phát triển, góp phần nâng cao dân trí, đảm bảo an ninh quốc phòng. Đến năm 2002, mật độ điện thoại bình quân của vùng đạt 10,03 máy/100 dân (bình quân cả nước 6,9 máy/100 dân).
Mạng lưới điện đã được phát triển đến các xã, phường trên lãnh thổ toàn vùng.
Hệ thống cung cấp nước sạch đã được nâng cấp, mở rộng ở các thành phố, thị xã. Trong vùng KTTĐPB đã có các nhà máy nước với tổng công suất cấp khoảng 60 vạn m3/ngày đêm, tỷ lệ cung cấp nước sạch cho người dân trong vùng đã nâng lên và có nhiều cải thiện. Hiện nay bằng nhiều nguồn vốn vay ODA của WB, OECF,... các tỉnh đang triển khai các dự án cấp nước như: ở Hà Nội (100.000 m3/ngày đêm), ở Hạ Long hai dự án Đồng Ho và Đồi Vọng (công suất 80.000 m3/ngày đêm) và nâng công suất nhà máy nước An Dương ở Hải Phòng (từ 60.000 lên 100.000 m3/ngày đêm). Đồng thời, đang nghiên cứu các dự án cấp nước cho hai thành phố Hà Nội, Hải Phòng.
(5) Một số mặt văn hóa – xã hội có bước phát triển khá
Hệ thống giáo dục phát triển tốt, đa dạng nhiều cấp học cũng như ngành học. Hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học không chỉ phục vụ cho nhu cầu trong vùng mà còn phục vụ cho các vùng khác. Nhiều trường đại học, cao đẳng, trung tâm dạy nghề đã được nâng cấp, trong đó một số trường đại học trọng điểm và dạy nghề trọng điểm đã được hiện đại hoá một bước. Đây là vùng có trình độ dân trí cao nhất so với các vùng khác trong cả nước, tập trung tới 26 - 27% cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học và 72% cán bộ có trình độ trên đại học của cả nước. Toàn vùng có 50 trường đại học, 20 trường cao đẳng (trên tổng số 139 trường của cả nước), 42 trường dạy nghề, 102 viện nghiên cứu chuyên ngành.
Mạng lưới y tế ngày càng được củng cố và phát triển, toàn vùng KTTĐPB hiện có 104 bệnh viện (chiếm 12,5% so cả nước), hơn 18 nghìn giường bệnh (chiếm hơn 16,3% so cả nước), có một số cơ sở đầu ngành của cả nước và đạt trình độ khám chữa bệnh tương đối cao so với khu vực và quốc tế. Trên địa bàn vùng KTTĐPB tất cả các xã, phường đều đã có trạm y tế, có 51 bệnh viện từ tuyến tỉnh trở lên (trong đó 42 bệnh viện đã và đang được cải tạo, nâng cấp) có bước tiến bộ đáng kể về cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ khám, chữa bệnh.
Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể (từ 9,6% năm 1995 xuống còn 6,3% năm 2002); mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 12 vạn người, mức sống của người dân ngày càng cao… Tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị năm 2005 giảm xuống còn 6% (cả nước là 5,6%).
Hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng cao một bước, 100% số hộ thành thị có thiết bị nghe nhìn, khoảng 90% các hộ nông dân được hưởng thụ các dịch vụ phát thanh và truyền hình.
An ninh, chính trị và trật tự xã hội có nhiều tiến bộ, thực hiện tốt các chương trình phát triển xã hội, chương trình 3 giảm (ma tuý, mại dâm, tội phạm); chương trình giải quyết việc làm và giới thiệu việc làm.
b. Những mặt còn hạn chế của Vùng
(1) Cơ cấu kinh tế tuy có sự chuyển dịch nhưng còn chậm so với yêu cầu phát triển, chưa tạo ra tiền đề cho tăng tốc và cạnh tranh quốc tế
Cơ cấu công nghiệp chưa hợp lý. Công nghiệp cơ bản và công nghiệp bổ trợ (sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ kiện...) chưa phát triển; công nghiệp công nghệ cao, chứa đựng hàm lượng chất xám lớn, công nghiệp cơ khí chế tạo máy... phát triển kém.
Sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp còn yếu, chi phí sản xuất còn cao. Năm 2002 chi phí sản xuất của các ngành công nghiệp chiếm khoảng 57% trong giá trị sản xuất công nghiệp. Nhiều sản phẩm công nghiệp, đặc biệt công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước (máy động lực phục vụ nông nghiệp của vùng chỉ giành được khoảng 5 – 6% thị phần trong nước, phần lớn thị phần còn lại do hàng hoá của Trung Quốc và Nhật Bản chiếm lĩnh). Giá thành một số sản phẩm còn cao, chẳng hạn giá xi măng cao gấp 1,2 – 1,3 lần giá xi măng quốc tế; các ngành sản xuất da, giày... giá thành cao, khó tiêu thụ.
Việc chuyển dịch cơ cấu lao động chưa mạnh, lĩnh vực công nghiệp xuất khẩu mới thu hút khoảng 2 – 3% lao động xã hội và tạo ra giá trị xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15 – 17% tổng giá trị sản lượng của ngành công nghiệp của vùng.
Dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm; tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP vùng không tăng mà có xu hướng giảm. Khu vực dịch vụ đang có xu hướng chững lại và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng chung của GDP. Đây là xu hướng bất lợi, nếu xu thế này không được khắc phục kịp thời thì sẽ làm hạn chế tốc độ tăng trưởng chung của vùng.
Trong nông, lâm, ngư nghiệp chủ yếu sản xuất theo kiểu truyền thống, việc ứng dụng công nghệ sinh học còn hạn chế, sản phẩm xuất khẩu ít.
(2) Trong thời gian qua mới chú trọng thực hiện công nghiệp hoá, nội dung hiện đại hoá của vùng KTTĐPB có phần còn chậm
Trình độ công nghệ, cơ cấu công nghệ nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu, việc đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao còn chậm. Trong vùng có khu công nghệ cao Hoà Lạc, song hình thành rất chậm. Các KCN khác tỷ lệ lấp đầy là 12%, thấp nhiều so tỷ lệ cả nước (43%) và trình độ công nghệ không cao. Công nghiệp điện tử và sản xuất đồ điện dân dụng là ngành mới phát triển, nhưng trình độ công nghệ nhìn chung chỉ ở mức trung bình, tập trung chủ yếu vào lắp ráp CKD, chỉ có khoảng 6 – 7% lắp ráp IKD; sản xuất linh kiện không đáng kể (năm 2002, có 16 doanh nghiệp đang hoạt động, đã sản xuất được: 1,6 triệu tivi, 78 triệu mạch in, 3 triệu tuner, 789 triệu tụ, 7 triệu starter); sản phẩm lắp ráp trong nước tiêu thụ chậm so với hàng nhập từ Đài Loan, Malaysia, Singapore,... Bước đầu lắp ráp đầu video, radio – cassette,... nhưng chất lượng chưa cao.
Phần lớn các thiết bị, công nghệ của ngành cơ khí được trang bị cách đây trên 20 năm nên rất lạc hậu về kỹ thuật, tỷ lệ sản phẩm chất lượng cao còn rất thấp. Công nghiệp cơ khí chế tạo động cơ (chủ yếu là sản xuất động cơ điện và máy bơm nước), công nghiệp sản xuất máy biến thế và thiết bị điện năng lực sản xuất hiện còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường.
Các ngành sản xuất vật liệu, đặc biệt vật liệu mới (tạo tiền đề để cho các ngành công nghiệp khác phát triển) chưa hình thành. Ngành sản xuất thép chủ yếu là sản xuất thép xây dựng thông thường, còn thép tấm và thép cao cấp vẫn phải nhập ngoại.
Công nghiệp may mặc, dệt và da, giầy được xác định là mũi nhọn của các tỉnh, nhất là ở Hà Nội, Hải Phòng và Hưng Yên; tuy có mức tăng trưởng tương đối khá (khoảng 10%) nhưng chủ yếu là gia công, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập, chưa chủ động được nguyên liệu và phụ liệu nên dù kim ngạch xuất khẩu cao, song giá trị xuất khẩu ròng đạt thấp (chỉ chiếm khoảng 25 – 30%).
Trong nông nghiệp, sử dụng phương thức thu hoạch, bảo quản thủ công là chính, tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch còn cao (tính trung bình ước tới khoảng 30%).
(3) Quy hoạch và quản lý đô thị còn nhiều yếu kém, môi trường bị ô nhiễm
Vùng KTTĐPB tuy có tỷ lệ đô thị hoá nhanh, tốc độ đạt khoảng 5%/năm, nhưng còn mang nặng tính tự phát, chưa gắn chặt với việc phát triển công nghiệp và dịch vụ; một số trường hợp do mong muốn phát triển nhanh, mở rộng và nâng cấp đô thị nên đã thúc đẩy quá trình mở rộng các đô thị bằng việc nâng cấp hành chính từ xã thành phường, gây tình trạng xáo trộn quá nhanh, thu hút nhiều vốn cho xây dựng kết cấu hạ tầng và làm cho công tác quản lý đô thị không theo kịp, công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch không đáp ứng yêu cầu phát triển nên góp phần làm cho thị trường bất động sản thiếu ổn định, môi trường bị ô nhiễm, kết cấu hạ tầng còn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển,... Trong quá trình đô thị hoá đã tạo ra một số lượng lớn người dân từ nông thôn vào thành thị làm việc và sinh sống. Theo kết quả điều tra dân số, toàn vùng KTTĐPB có tới hơn 25 – 27 vạn người hiện đang sống ở các đô thị nhưng không có hộ khẩu thường trú và có tới chục vạn người từ nông thôn r