Nền sản xuất hàng hoá trong quá trình hoạt động và phát triển của nó luân chịu sự chi
phối của các quy luật kinh tế.Quy luật kinh tế là những mối liên hệ nhân quả,tất
yếu,bản chất ,thường xuyên,lặp đi lặp lại của các quá trình kinh tế khách quan.Quy
luật kinh tế hoạt động ở mỗi phương thưcsanr xuất hợp thành một hệ thống có tác
động chi phối hoạt động của phương thức sản xuất đó.do đó việc nắm bắt các quy luật
kinh tếco ý nghĩa hết sức quan trọng,nhất là trong điều kiện hiện nay khi đất nước ta
đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Trong khuân khổ tiểu luận này tôi tôI xin được phân tích quy luật giá trị hàng hoá
trong nền sản xuất hàng hoá và sự vận dụng quy luật này trong xây dựng kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
QLGT là quy luật hoạt động trong các phương thức sản xuất có sản xuất và lưu thông
hàng hoá.QLGT là một quy luật kinh tế nên có biểu hiện thông qua hoạt động kinh tế
của con người,thông qua sự vận động của các phạm trù kinh tế,các hình thức kinh tế
cũng như quá trình kinh tế cụ thể nhất định.mặt khác cũng mang tính lịch sử nên chỉ
xuất hiện ,tồn tại dựa trên những cơ sở kinh tế xá định.có thể nói QLGT là những kiến
thức cơ bản và kháI quát nhất trong sản xuất kinh doanh.hiểu một cách đầy đủ về
QLGT,chúng ta mới có tri thức để áp dụng chúng vào trong điều kiện thực tiễn hiện
nay.
16 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 10785 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa và sự vận dụng quy luật này trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nền sản xuất hàng hoá trong quá trình hoạt động và phát triển của nó luân chịu sự chi
phối của các quy luật kinh tế.Quy luật kinh tế là những mối liên hệ nhân quả,tất
yếu,bản chất ,thường xuyên,lặp đi lặp lại của các quá trình kinh tế khách quan.Quy
luật kinh tế hoạt động ở mỗi phương thưcsanr xuất hợp thành một hệ thống có tác
động chi phối hoạt động của phương thức sản xuất đó.do đó việc nắm bắt các quy luật
kinh tếco ý nghĩa hết sức quan trọng,nhất là trong điều kiện hiện nay khi đất nước ta
đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Trong khuân khổ tiểu luận này tôi tôI xin được phân tích quy luật giá trị hàng hoá
trong nền sản xuất hàng hoá và sự vận dụng quy luật này trong xây dựng kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
QLGT là quy luật hoạt động trong các phương thức sản xuất có sản xuất và lưu thông
hàng hoá.QLGT là một quy luật kinh tế nên có biểu hiện thông qua hoạt động kinh tế
của con người,thông qua sự vận động của các phạm trù kinh tế,các hình thức kinh tế
cũng như quá trình kinh tế cụ thể nhất định.mặt khác cũng mang tính lịch sử nên chỉ
xuất hiện ,tồn tại dựa trên những cơ sở kinh tế xá định.có thể nói QLGT là những kiến
thức cơ bản và kháI quát nhất trong sản xuất kinh doanh.hiểu một cách đầy đủ về
QLGT,chúng ta mới có tri thức để áp dụng chúng vào trong điều kiện thực tiễn hiện
nay.
Vì thời gian cũng như những hiểu biết có hạn trong khuôn khổ đề tài này tôi
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu xót.tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của
thầy là : PGS – TS Vũ Văn Hân – giảng viên trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân –
người dã trực tiếp giảng dậy tôi trong suất thời gian qua để tôi hiểu sâu sắc hơn về đề
tài : “quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá và sự vạn dụng quy luật này trong
xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”.
Em xin chân thành biết ơn thầy!
2
3
NỘI DUNG
QLGT VÀ VAI TRÒ CỦA QLGT TRONG NỀN KTHH
1. VỊ TRÍ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ:
. Trong nền sản xuát hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu ,sản xuất là việc riêng của
từng người ,cho nên ho hoạt động hoàn toàn tự do,không bi một sức mạnh nào rang
buộc.sự thực, mọi hoạt động của họ trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực
lưu thông,đều bị QLGT,quy luật của sản xuất và trao đổi hàng hoá chi phối.
Trong nền kinh tế hàng hoá ,hàng hoá và dịch vụ do các doanh nghiệp ,những
người sản xuất hàng hoá tư nhân,riêng lẻ xuất ra.những chủ thể sản xuất hàng hoá
cạnh tranh với nhau. Mỗi người đều tự mình sản xuất độc lập không phụ thuộc vào
người khác,vừa lo cạnh tranh giữ vững và mở rộng địa vị của mình trên thị trường.
Tuy nhiên trên thị trường, những người sản xuất hàng hoá là bình đẳng với nhau. Sản
xuất hàng hoá càng phát triển thì quyền lực của thị trường đối với người sản xuất
càng mạnh. Quyền lực này tồn tại khách quan, độc lập và chi phối họ. Lực lượng
khách quan đó chính là những quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá mà trước hết đó
chính là QLGT.
QLGT quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phảI tién hành trên cơ sở lượng
giá trị hàng hoá hay hao phí lao động xã hội cần thiết. điều đó có nghĩa là : giá trị
hàng hoá do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá tạo nên và lươnmgj giá
trị của hàng hoá cá biệt phảI phù hợp với lượng lao động xã hội tất yếu đẻ làm ra loại
hàng hoá đó. Nói cách khác : hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá
phảI phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, lực lượng lao động dành cho một
nghành sản xuất nào đó phảI phù hợp với nhu cầu xã hội. Người sản xuất muốn làm
ăn có lãI thì ắt hẳn phảI sản xuất ra hàng hoá có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao
phí lao động xã hội cần thiết. Nừu không ,hàng hoá của người đó sẽ không được đại
bộ phận người tiêu dùng chấp nhận
Bên cạnh đó , trao đổi phảI được tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. đó là yêu
cầu của QLGT. QLGT buộc mọi người sản xuất và trao đổi hàng hoá phảI tuân theo
mệnh lệnh của giá cả trên thị trường. chỉ co thông qua sự vận động lên xuống của giá
4
cả thị trường mới thấy được sự hoạt động của QLGT. vỉ giá trị là cơ sở của giá cả
,nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hopá nào nhiều giá trị thì giá cả của
nó sẽ cao và ngược lại. trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các
nhân tố như : cạnh tranh cung, cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân
tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay
quanh trục giá trị của nó.sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục
giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của QLGT. Thông qua sự vận động của giá cả
thị trường mà QLGT phát huy tác dụng. Giá cả thị trươpngf lên xuống một cách tự
phát , xoay chung quanh giá trị , là sản phảm của nền kinh tế tự do cạnh tranh, biểu
hiện sự tác động của QLGT trong điều kiện sản xuất và trao đổi hang hoá tư nhân.
2. YÊU CẦU CỦA QLGT :
Trong nền sản xuất hang hoá giản đơn: hàng hoá được làm ra phục vụ nhu cầu cá
nhân. vì vậy lưu thông và buôn bán không phải là mục đích của người sản xuất.sản
phẩm làm ra, được đem ra trao đổi cũng chỉ để thoả mãn nhu cầu cá nhân, không phải
nhu cầu của xã hội
VD : 1kg thịt cừu đổi lấy 5kg lúa mạch.
Đó là những sản phẩm cá nhân. ở đây người ta quan tâm đến giá trị sử dụng của
hàng hoá .”mỗi người sở hữu trao đổi hàng hoá để thoả mãn nhu cầu ca nhân . Anh ta
muốn đổi hàng hoá của mình lấy một háng hoá khác hợp với sở thích mà không cần
quan tâm xem hàng hoá của mình đối với người sở hữu hàng hoá kia có một giá trị có
ích gì hay không”.(C.Mac)
Trong lền sản xuất hàng hoá TBCN: hàng hoáđược làm ra để phục vụ cho nhu cầu
xã hội . sản phẩm sản xuất ra không đơn thuần để trao đổi mà để buôn bán và lưu
thông .Mục đích của lền sản xuất là phục vụ nhu cầu xã hội . với người sở hữu hàng
hóa ,bất cứ hàng hoá nào cũng là vật ngang giá chung cho tất cả mọi hàng hoá khác .
Nhưng vì tất cả mọi người đều ở trong trường hợp như vậy cho lên không có một
hàng hoá nào la vật ngang giá chung cả .Giá trị tương đối của hàng hoá không có một
hình thức chung nào làm cho hàng hoá có thể coi là số lượng giá trị đươc đem so sánh
với nhau . hàng hoá được đem là vật ngang giá chung là kết quả của hành vi xã
hội.một hàng hoá đặc biẹt đã được tách riêng ra và được dung để cho các hàng hoá
5
khác biểu hiện giá trị của mình ,hàng hoá đó là tiền tệ. Giá trị hàng hoá được biểu
hiện ra bằng tiền được gọi là giá cả hàng hoá . trong nền kinh tế XHCN,tiền tệ cũng
được dùng làm tiêu chuẩn giá cả.ở Viêt Nam tiêu chuẩn giá cả là “Đồng” (VNĐ)
Trong nền sản xuất hàng hoá XHCN : hang hoá đều có giá trị , số lượng lao động
xã hội cần thiết quyết định lượng giá trị đó.chỉ trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng
sản ,sản xuất hàng hoá ,QLGT và tiền tệ mới tiêu vong.
Về các hình thức chuyển hoá của QLGT thì co thể chia làm 2 loại, theo thời
gian. Thứ nhất là trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh : QLGT chuyển hoá thành
quy luật giá cả sản xuất . thứ hai là trong giai đoạn CNTB độc quyền : QLGT chuyển
hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.
3. NHỮNG TÁC DỤNG CỦA QLGT :
- QLGT điều tiết sản phẩm và lưu thông hàng hoá
Điều tiết sản phẩm hàng hoátức là điều hoà , phân bổ các yếu tố xuất giữa các
nghành,các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của QLGT thông qua sự biến
động của quy luật cung cầu . nếu ở ngành nào đó cung nhỏ hơn cầu ,giá cả hàng hoá
sẽ nên cao hơn giá trị , hàng hoá bán chạy, lãi cao ,thì người sản xuất sẽ đổ xô vào
ngành ấy. Do đó tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng
lên. ngược lại khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ giảm xuống , hàng hoá bán
không chạy và có thể lỗ vốn.tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô
sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao hơn. còn
trường hợp cung và cầu trên thị trường cân bằng nhau, tức là giá cả bằng với giá trị,
sản xuất vừa khít với nhu cầu của xã hội, thì hết sức hiếm và ngẫu nhiên .
Như vậy là theo mệnh lệnh của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống quanh giá trị
mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ ngành này sang ngành khác ,
do đó quy mô sản xuất của ngành đó mở rộng. Việc điều tiêt tư liệu sản xuất và sức
lao động trong từng lúc có xu hướng phù hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những
tỷ lệ cân đối nhất định giữa các ngành sản xuất. đó là biểu hiện vai trò điều tiết của
6
QLGT. Nhưng sản xuất trong điều kiện chế độ tư hữu, cạnh tranh tự do vô chính phủ
sẽ dãn đến những tỉ lệ cân đối hình thành một cách tự phát đó chỉ là hiện tượng tạm
thời và thường xuyên bị phá vỡ, gây ra những lãng phí to lớn về của cải xã hội.
QLGT không chỉ điều tiết sản xuất hàng hoá mà còn điều tiết cả lưu thông hàng
hoá . giá cả hàng hoá hình thành một cách tự phát thoe quan hệ cung cầu. Cung và cầu
có ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, nhưng giá cả cũng có tác dụng khơi thêm luồng
hàng, thu hút những luồng hàng từ nơI giá thấp đến nơi giá cao, làm cho lưu thông
hàng hoá thông suất. Vì thế lưu thông hàng hoá cũng do QLGT điều tiết thông qua sự
lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị .
Như vậy sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động
về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- QLGT kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc
lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản
xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí
lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí xã hội của hàng hoá thì ở thế có lợi, sẽ thu được lãi
cao. Ngươi sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội
cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ
nợ, phá sản, họ phai hạ thấp hao phí lao dộng cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí
lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy họ phải luân tìm cách cải tiến kỹ thuật, cảI tiến tổ
chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh
quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết
quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Như vậy QLGT
đã thúc đẩy sản xuất phát triển.
- QLGT thực hiện sự lựa chọ tự nhiên và phân hoá người
sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo.
Trên thị trường các hàng hoá có giá trị cá bịêt khác nhau đều phải trao đổi theo giá
trị xã hội. Cạnh tranh là quan hệ kinh tế giữa những người cùng sản xuất, kinh doanh
7
một loại sản phẩm . cạnh tranh vừa là môi trường vừa là dộng lực của sự phát triển.
Do đó trong quá trìng sản xuất và trao đổi hàng hoá không tránh khỏi tình trạng một
số người sản xuất phát tài, làm giàu, còn một số người khác bị phá sản. những người
có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao , trang bị kỹ thuật tốt nên có
hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phi lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài,
giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi hoặc gặp
ruỉ ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn sự tác động của QLGT dẫn đến kết quả là
một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân công và trở thành nhà tư bản, còn
một số lớn người khác bị phá sản dần, trở thành những người lao động làm thuê.thế là
sự hoạt động của QLGT dẫn tới sự phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm cho
quan hệ sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa phát sinh. Lê –Nin nói : “ …nền tiểu sản xuất thì
từng ngày, từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự
phát và trên quy mô rộng lớn”.
Trong nền sản xuất hàng hoá tu bản chủ nghĩa, QLGT cũng tác động hoàn toàn tự
phát “sau lưng’’ những người sản xuất, hoàn toàn ngoài ý muốn của nhà tư bản. chỉ
trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm địa
vị thống trị, con người mới có thể nhận thức và vận dụng QLGT một cách có ý thức
để phục vụ lợi ích của mình.
Tóm lại, QLGT một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên,đào thải các yếu tố kém,
kích thích các nhân tố tích cực phát triển, măt khác nó phân hoá xã hội thành kẻ giàu
người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM .
1. thực trạng việc vận dụng QLGT và vai trò của QLGT trong nèn kinh
tế ở nước ta trong thời gian qua.
8
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam được
xã định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Thời gian trước đổi mới :
Trong thời kỳ trước đổi mới , chunbgs ta đã có cách hiểu không đúng về
việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng,bình đẳng xã
hội,do đó việc vận dụng QLGT cũng có những thiếu sót.
Trước năm 1986nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập trung bao
cấp. Nhà nước nhận thức, tính toán và lợi dụng tác dụng của QLGT trong thực tiễn
lãnh đạo nền kinh tế một cách có kế hoạch (kế hoạch hoá mang tính chất mệnh lệnh).
điều này là rất cứng nhắc và mang nhiều yếu tố chủ quan,vô hình chung đã phủ nhận
tính khách quan của QLGT.
Cụ thể : trước đổi mới ở nước ta thực hiện cơ chế hai giá : giá cả theo kế
hoạch và giá cả trên thi trường tự do. Giá cả theo kế hoạch thấp hơn rất nhiều so với
giá cả trên thị trường tự do. Nói chung giá cả đó gần như không có quan hệ gì với giá
trị hàng hoá,cũng như không tương quan đến cung,cầu hàng hoá,nên mọi sự tính toán
hiệu quả đều sai lệch. Bao cấp qua giá là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
thâm hụt lớn của ngân sách, do đó dẫn đến lạm phát.
Việc phân phối lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành kinh tế quốc dân
không phảI tiến hành dựa trên sự lên xuống của giá cả thị trường chung quanh giá cả
sản xuất. Trong thời kỳ này chúng ta đã có cách hiểu không đúng về công bằng và
bình đẳng xã hội, đồng nhất công bằng với biùnh đẳng, dẫn đến chính sách bình quân
trong phân phối. chính sự bất công đó tăng dần lên đến mức làm cho người lao động
thờ ơ với sở hữu xã hội, không quan tâm đến kết quả lao động.
Và hậu quả là đã làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội.
Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, nghèo đói.
- Thời gian sau đổi mới :
9
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta không ngoài mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội. đảng ta luôn luôn khẳng định mục tiêu : “tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng dan chủ văn minh, vững bước đI lên xã hội chủ nghĩa”.và QLGT đã
được nhà nước vận dụng vào kế hoạch hoá mang tính định hướng. Nhà nước phảI tính
toán, vận dụng QLGT vào việc xây dựng kế hoạch dựa trên tình hình định hướng giá
cả thị trường.do giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện riêng của giá trị nhưng hệ
thống giá cả trong nền kinh tế hàng hoá còn chịu sự tác động của các quy luật khác
như quy luật cung – cầu , quy luật cạnh tranh…
Nhà nước sử dụng hệ thống giá cả để quy định tỷ lệ phân phối vốn cho các ngành,
việc phân phối đó căn cứ vào nhu cầu phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc
dân.
Các chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ phảI tính đến giá trị và tương quan
giữa cung – cầu . trong phân phối : lấy phân phối theo lao động làm cơ sở . hình thức
tiền tệ của tiền lương là phương tiện để kiểm tra mức độ lao độngvà mức độ trr công
trong xã hội.
2. KẾT QUẢ VÀ VAI TRÒ
- Tình hình kinh tế nước nhà thời gian qua
Tình hình kinh tế nước ta thời gian qua đã có nhiều chuyển biến đáng mừng
cụ thể:
+ về tăng trưởng kinh tế :
Sau 5 năm thợc hiện đổi mới kinh tế chủ yếu nhờ các biện pháp giảI phóng
sức lao động trong nước và mở cửa nền kinh tế , tận dụng nguồn lực bên ngoài,từ năm
1991 đến nay nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình
7,67% hàng năm từ 1991 -1999 và đạt xấp xỉ 7,0% giai đoạn 2000 – 2002, mức kỷ
lục là 9,45% năm 1995. từ năm 1998, tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều
nguyên nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế như tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính châu á (nổ ra đầu tiên ơ Thai Lan năm 1997).
10
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm đâu
1990, Viêt Nam đã khá thành công trong viẹc kiềm chế và kiểm soát làm phát. chỉ số
giá hàng tiêu dùng (CPI)giảm từ 67,5% năm 1991 xuống còn 0,1% năm 1999 . từ năm
1996, lạm phát dao động ở mức một con số góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển biến tích cực theo hướng
giảm tỷ trọng của khu vực nông – lâm – ngư nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 24,3%
trong khi đóng góp của khu vực công nghiệp – xây dựng là 36,6% và của khu vực
dịch vụ là 39.1% từ mức 23,5% và 36% tương ứng của năm 1991.
Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển dịch đáng lưu
ý là : sau thời kỳ suy giảm kinh tế từ năm 1986 đến 1991 tỷ trọng của khu vực kinh tế
nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm 1993 sau đó giữ ổn định
khoảng trên 40% từ 1994 – 1999, trong khi đó tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh trong nước GDP liên tục giảm từ 70,75% năm 1991 xuống còn
49,4%năm 1999. tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân vãn còn lớn và chưa được
khai thác cao cho tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở sản
xuất nông-lâm- ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với quy mô
nhỏ và rất nhỏ. Từ năm 1994 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có vai trò ngày
càng tăng trong phát triển kinh tế VIỆT NAM . mặc dù từ năm 1998 đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh ,tỉ trọng của khu vực này GDP vẫn tăng chiếm
9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999
Việt Nam dã trảI qua thập kỉ 90 của thế kỉ xx vói những thành tựu khá ấn
tượng về phát triển kinh tế , đồng thời xuất hiện những vấn đề mới đe doạ tới sự phát
triển bền vững . tăng trưởng kinh tế với tốc độ tương đối cao và giá cả ổn định là
những tiền đề thuận lợi cho công cuộc đổi mới trọng giai đoạn tới cũng như cho việc
giảI quyết các vấn đề xã hội nổi cộm như việc làm thất nghiệp ngèo đói
+ về vấn đề đầu tư và tiết kiệm:
Tổng vốn đàu tư toàn xã hội, giai đoạn 1990-2000đạt khoảng 682,880 tỷ
đồng, tăng liên tục từ 6,747 tỷ đồng năm 1990 lên68,018 tỷ đồng năm 1995 và
120,600 tỷ năm 2000 (giá hiện hành) . Tổng đầu tư xã hội so vói GDP cũng tăng
nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm 1997- là mức cao nhất trong cả giai đoạn .
11
Từ năm 1998, khi khủng hoảng tài chính châu á nổ ra , tỷ lệ này có xu hướng giảm
chỉ còn 26,3% năm 1999, là một trong nhưng nguyên nhân chính làm giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tăng trở lại với mức 4,8% của năm 1999, nhưng tổng
đầu tư xã hội ước tính chỉ đạt khoảng27,2% so với GDP.
Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài
ngày cangy chiếm tỷ trọng lớn. Vốn đầu tư của tư nhân trong nướckhông những ở
mức thấp mà còn tăng chậm, kết hợp với su hướng giảm của FDI đã ảnh hưởng xấu
tới tăng trưởng kinh tế, từ đó gây sức ép đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,2% năm
1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ 1997 trở đI liên tục tăng . Trong cả thập kỉ 90, tỷ
lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích thích đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Điều