Trước hết, đó là các quan hệ dân sự. Quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa hẹp là những quan hề về tài sản và nhân thân. Tuy nhiên, ở đây, khái niệm “quan hệ dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Điều này được quy định rất rõ và sử dụng thống nhất trong hai văn bản phát lý quan trong của Tư pháp quốc tế Việt Nam là BLDS 2005 và BLTTDS 2004.
Như vậy, quan hệ dân sự là những quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác gọi chung là các chủ thể tư. Tuy nhiên, cùng cần lưu ý một điều rằng không phải mọi quan hệ phát sịnh giữa các chủ thể tư đều là quan hệ dân sự , khác quan hệ hình sự giữa hai chủ thể tư. Và ngược lại quan hệ dân sự không phải chỉ có thể phát sinh giữa các chủ thể tư như sứ quán nước lào thuê một số căn hộ của công dân việt nam cho nhân viên của mình cũng là một quan hệ có tính chất dân sự.
Việc khẳng định tư pháp quốc tê nghiên cứu các quan hệ pháp luật dân sự cho thấy sự khác biệt rõ nét giữa tư pháp quốc tê và công pháp quốc tế. Nó có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh riêng và là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, Tư pháp quốc tế còn được phân biệt với luật dân sự là một ngành luật có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật quốc gia, cũng có đối tượng điều chỉnh là nhóm quan hệ dân sự theo nghĩa rộng phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Điểm khác biệt cơ bản phân biệt giữa tu pháp quốc tế và luật dân sự chính là yếu tố nước ngoài.
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong ba yếu tố: yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể, yếu tố nước ngoài về mặt khách thể, yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý. Nếu như một quan hệ dân sự tồn tại một trong ba yếu tố này thì quan hệ đó sẽ thuộc diện điều chỉnh của tư pháp quốc tê.
- Yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể được thể hiện trong trường hợp một bên hoặc các bên có quốc tịch hoặc nơi cư trú ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào việc đối tượng của quan hệ hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu)
- Yếu tố nước ngoài về mặt khách thể được thể hiện trong trường hợp khi tài sản là đối tượng của quan hệ hiện diện ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào việc các chủ thể là ai, cư trú ở đâu hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu)
- Yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý được thể hiện khi sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự đó xảy ra ở nước ngoài (Điều này không phụ thuộc vào chủ thể và đối tượng của quan hệ có chứa đựng yếu tố nước ngoài hay không)
27 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4510 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quy phạm pháp luật xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận tốt nghiệp: Hệ thống quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam, Lê Thị Bích Thủy, Hà Nội, 2010
Chương I. Khái quát về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và quy phạm xung đột
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Khái niệm
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Trước hết, đó là các quan hệ dân sự. Quan hệ dân sự được hiểu theo nghĩa hẹp là những quan hề về tài sản và nhân thân. Tuy nhiên, ở đây, khái niệm “quan hệ dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Điều này được quy định rất rõ và sử dụng thống nhất trong hai văn bản phát lý quan trong của Tư pháp quốc tế Việt Nam là BLDS 2005 và BLTTDS 2004.
Như vậy, quan hệ dân sự là những quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác gọi chung là các chủ thể tư. Tuy nhiên, cùng cần lưu ý một điều rằng không phải mọi quan hệ phát sịnh giữa các chủ thể tư đều là quan hệ dân sự , khác quan hệ hình sự giữa hai chủ thể tư. Và ngược lại quan hệ dân sự không phải chỉ có thể phát sinh giữa các chủ thể tư như sứ quán nước lào thuê một số căn hộ của công dân việt nam cho nhân viên của mình cũng là một quan hệ có tính chất dân sự.
Việc khẳng định tư pháp quốc tê nghiên cứu các quan hệ pháp luật dân sự cho thấy sự khác biệt rõ nét giữa tư pháp quốc tê và công pháp quốc tế. Nó có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh riêng và là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, Tư pháp quốc tế còn được phân biệt với luật dân sự là một ngành luật có vị trí trung tâm trong hệ thống pháp luật quốc gia, cũng có đối tượng điều chỉnh là nhóm quan hệ dân sự theo nghĩa rộng phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Điểm khác biệt cơ bản phân biệt giữa tu pháp quốc tế và luật dân sự chính là yếu tố nước ngoài.
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong ba yếu tố: yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể, yếu tố nước ngoài về mặt khách thể, yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý. Nếu như một quan hệ dân sự tồn tại một trong ba yếu tố này thì quan hệ đó sẽ thuộc diện điều chỉnh của tư pháp quốc tê.
Yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể được thể hiện trong trường hợp một bên hoặc các bên có quốc tịch hoặc nơi cư trú ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào việc đối tượng của quan hệ hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu)
Yếu tố nước ngoài về mặt khách thể được thể hiện trong trường hợp khi tài sản là đối tượng của quan hệ hiện diện ở nước ngoài (điều này không phụ thuộc vào việc các chủ thể là ai, cư trú ở đâu hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ xảy ra ở đâu)
Yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý được thể hiện khi sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự đó xảy ra ở nước ngoài (Điều này không phụ thuộc vào chủ thể và đối tượng của quan hệ có chứa đựng yếu tố nước ngoài hay không)
Việc thừa nhận và khẳng định ba yếu tố nước ngoài nói trên lần đầu tiên được ghi nhận một cách chính thức trong định nghĩa về “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của BLDS 1995 (Điều 26) và được hoàn thiện trong BLDS 2005 ở điều 758:…
Việc thừa nhận bộ luật dân sự 1995 là văn bản pháp luật đầu tiên chính thưc quy định khái niệm “quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài” và quy định trong bộ luật dân sự 2005 là sự tiếp nối và hoàn thiện đầy đủ quy định đó. Điều này đã giải quyết được khó khăn lớn trong vấn đề nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi nghiên cứu cũng như khi áp dụng vào thực tiễn trước khi bộ luật 1995 ra đời. Một điểm cần lưu ý ở đây đó chihs là so với bộ luật 1995, khái niệm “quan hệ dsự có yếu tố nước ngoài” đã được mở rộng hơn so với bộ luật dân sự 2005. Theo đó, một quan hệ giữa hai bên đều mang quốc tịch việt nam cũng có thể là một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nếu căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Đặc điểm
Như đã phân tích ở trên, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trước tiên là một quan hệ dân sự, vì thế nó đương nhiên sẽ mang những đặc điểm thể hiện bản chất của một quan hệ dân sự. Khác với quan hệ pháp luật hành chính hay hình sự, điểm đặc trừng cơ bản nhất của quan hệ dân sự chính là địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự đều bình đẳng. Sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự là một đặc điểm không thể tồn tại đối với cácchủ thể trong quan hệ hành chính và quan hệ hình sự. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của quan hệ pháp luật dân sự khi so sánh với các quan hệ pháp luật của các ngành luật công. Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp để đối xửa không bình đẳng với nhau. Bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự là bình đẳng pháp lý, nghĩa là pháp luật không dành đặc quyền và không phân biệt đối xử giữa các chủ thể khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự.
Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự đều bình đẳng được thể hiện ở các nội dung: bình đẳng về khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự; bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quan hệ mà các chủ thể tham gia; bình đẳng trong việc chịu trách nhiệm dân sự do hành vi vi phạm nghĩa vụ.
Bình đẳng trong quan hệ dân sự không có nghĩa là cao bằng. Trong một số trường hợp, do ý nghĩa xã hội của vấn đề mà bộ luật dân sự quy định những lợi thế, ưu tiền nhất định cho chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ: ưu tiên bảo vệ sở hữu nhà nước (khoản 2 điều 247 BLDS), quy định về giải thích hợp đồng mẫu theo hướng bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng mẫu (khoản 2 điều 407). Tuy nhiên, những quy định trên vẫn đảm bảo yếu tố bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự, thể hiện ở chỗ, mọi chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, trong những điều kiện được pháp luật dự liệu đều được đối xử bình đẳng.
Tính bình đẳng của các chủ thể vẫn được đảm bảo trong một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Vấn đề về quốc tịch không làm thay đổi bản chất này của quan hệ dân sự. Chỉ khác với quan hệ dân sự trong nước, quan hệ dân sự thuộc diện điều chỉnh của tư pháp quốc tế sẽ mang thêm một đặc điểm đúng như tên gọi của nó. Đó chính là “yếu tố nước ngoài”.
Xung đột pháp luật và quy phạm xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tê
Khái niệm về xung đột pháp luật và quy phạm xung đột
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Điều này có nghĩa là các quan hệ tư pháp quốc té thường không chịu sự điều chỉnh của pháp luật một quốc gia mà liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều hệ thống pháp luật. Điều này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia dẫn đến sự bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến các quốc gia đó. Do điều kiện phát triển kinh tế xã hội, từ quan điểm chính trị, phong tục tập quan, từ đặc điểm của các hệ thống pháp luật… nên pháp luật của các nước không bao giờ hoàn toàn giống nhau, thường có sự khác nhau khi giải quyết những vấn đề cụ thể, vì thể việc áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau sẽ magn lại hệ quả pháp lý khác nhau. Bên cạnh đó, pháp luật các nước đều cố gắng trong khả năg có thể đẻ bảo vệ quyền lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức của nước mình nên các quốc gia đều cố gắng để áp dụng pháp luật nước mình trong quan hệ có công dân, cơ quan, tổ chức nước mình tham gia.
Trong khoa học tư pháp quốc tê, hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều nước cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cụ thể được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật. Vấn đề xung đột pháp luật không bao giờ đặt ra trong quan hệ pháp luật hành chính, pháp luật hình sự.. Sở dĩ như vậy là vì không chỉ xuất phát từ sự bất bình đằng giữa các chủ thể trong các mối quan hệ mà còn một lý do nữa đó là tính hiệu lực theo lãnh thổ rất nghiêm ngặt của luật hình sự, luật hành chính… không thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài trong các quan hệ trên.
Ví dụ: ông Minh và bà Nữ kết hôn với nhau vào năm 1976. Năm 1986, hai người cùng nhau vượt biên sang campuchia. Khi qua biên giới giữa Thái Lan và Campuchia thì hai ông bà bị tập đoàn diệt chủng Pônpốt phát hiện. Kết quả là bà Nữ bị giết chết. Nay ông Minh sang sinh sống ở Mỹ, yêu cầu tòa án Việt Nam tuyên bố bà Nữ chết. Qua điều tra các chứng cứ có liên quan và sau khi thực hiện việc thông báo nhắn tin cũng như xác minh lời khai, Tòa án tỉnh Trà Vinh (nơi cư trú cuối cùng của bà Nữ) thấy “có đủ cơ sở để tuyên bố bà Nữ đã chết” và tuyên bố “bà Nữ, sinh năm 1954 nơi cư trú cuối cùng là tỉnh Trà Vinh, đã chết từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật”.
Trên đây là ví dụ về một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, vì sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ dân sự (việc ông Minh yêu cầu tuyên bố bà Nữ chết) là sự kiện thực tế bà Nữ bị giết chết tại biên giới Thái Lan – Campuchia, người đưa ra yêu cầu tuyên bố sinh sống ở Mỹ… Trong vụ việc này, có bốn hệ thống pháp luật có thể được áp dụng để giải quyết việc tuyên bố bà Nữ chết: pháp luật Việt Nam, pháp luật Mỹ, pháp luật Thái Lan, pháp luật Campuchia. Giải quyết câu hỏi “pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết” chính là giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong Tư pháp quốc tế.
Như vậy “ xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài”. Vấn đề giải quyết quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh.
Hiện nay ở Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới có hai phương pháp để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Trong đó, phương pháp xung đột được xem là phương pháp đặc thù của tư pháp quốc tế với việc sử dụng các QPXĐ để giải quyết vấn đề chọn luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh. QPXĐ sẽ không trực triếp giải quyết quan hệ pháp luật, cụ thể là sẽ không quy định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể trong những tình huống cụ thể xác định mà chỉ dẫn chiếu đến luật thực chất của các quốc gia và ở đó có quy định thực tế giải quyết quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ.
QPXĐ là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
QPXĐ không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên cũng như hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên đương sự vi phạm pháp luật. Các quy phạm này chỉ quy định việc chọn pháp luật nước này hay nước khác để điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài. Việc “chọn luật” không thể là tự do tùy tiện mà phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. Điều này có nghĩa là việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào để áp dụng sẽ không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án có thẩm quyền, hoặc sẽ không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ. Khác với các quan hệ dân sự thông thường, trong quá trình điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, xuất hiện một vấn đề rất phức tạp, đó chính là “sự đụng độ” giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật liên đới. Có ý kiến nhận xét: “Việc quy định luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài không chỉ căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng mối quan hệ mà còn căn cứ vào lợi ích của quốc gia ban hành ra các quy định đó”. Vì thế, trong QPXĐ, việc quy định nguyên tắc “chọn luật” để giải quyết quan hệ dân sự không chỉ tính đến quyền lợi, sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ đó mà còn phải tính đến việc đảm bảo sự bình đẳng và lợi ích của các hệ thống pháp luật liên quan.
Như vậy, có thể nói QPXĐ luôn mang tính chất “dẫn chiếu”. Khi QPXĐ dẫn chiếu đến một hệ thống pháp luật cụ thể và các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật đó được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, đó chính là tính chất “song hành” giữa QPXĐ và quy phạm thực chất trong điều chỉnh pháp luật. Cùng với quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật QPXĐ dẫn chiếu tới, rõ ràng QPXĐ đã thể hiện khả năng quy định những quy tắc xử sự cho các bên khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế cụ thể.
Phân loại QPXĐ
Hiện nay tồn tại rất nhiều cách phân loại QPXĐ
Căn cứ vào mặt kỹ thuật xây dựng quy phạm, QPXĐ chia thành: QPXĐ một chiều và QPXĐ hai chiều. Đây là một trong những cách phân loại QPXĐ phổ biến trong tư pháp quốc tế hiện nay
Quy phạm xung đột một chiều (QPXĐ một bên) là loại quy phạm chỉ ra loại quan hệ dân sự này chỉ được áp dụng luật pháp của một nước cụ thể
Ví dụ: khoản 2 điều 769 BLDS:… Ở đây, quy định chỉ rõ, khi một quan hệ pháp luật về hợp đồng phát sinh và quan hệ đó liên quan đến một bất động sản ở Việt Nam thì luật duy nhất được áp dụng là luật Việt Nam mà không có sự lựa chọn nào khác
Quy phạm xung đột hai chiều (QPXĐ hai bên) là loại quy phạm chỉ ra nguyên tắc chung để lựa chọn một hệ thống pháp luật nào đó để điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước ngoài
Ví dụ: khoản 2 điều 766:… Trong quy phạm này, nếu động sản được chuyển đến Việt Nam thì sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam nhưng nếu động sản được chuyển đến một quốc gia nào khác thì sẽ áp dụng pháp luật của quốc gia đó.
Căn cứ vào tính chất, QPXĐ được chia thành hai loại là QPXĐ mệnh lệnh và QPXĐ tùy nghi
QPXĐ mệnh lệnh là quy phạm mà trong đó, quy tắc để tiến hành chọn luật mang tính bắt buộc, không cho phép các bên tự thỏa thuận với nhau. Khoản 2 điều 769 về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan đến bất động sản ở Việt Nam, khoản 1 điều 767 về thừa kế có yếu tố nước nogài theo pháp luật… là những ví dụ điển hình cho QPXĐ mệnh lệnh.
QPXĐ tùy nghi là quy phạm cho phép các bên thỏa thuận “chọn luật” để điều chỉnh hoặc cho phép các cơ quan có thẩm quyền được lựa chọn pháp luật để áp dụng.
Căn cứ vào nguồn, QPXĐ được chia thành QPXĐ thống nhất và QPXĐ trong nước
QPXĐ thống nhất là những quy phạm được các quốc gia thỏa thuận xây dựng trong các điều ước quốc tế (song phương và đa phương) hoặc qua việc thừa nhận các tập quán quốc tế
QPXĐ trong nước (QPXĐ thông thường) là các quy phạm được các quốc gia xây dựng trong hệ thống pháp luật nước mình nhằm hướng dẫn các cơ quan có thẩm quyền của nước mình hoặc các bên tham gia trong quan hệ trong việc chọn luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Các QPXĐ trong nước thường được quy định theo một trong hai cách thức là quy định trong từng văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau hoặc tập hợp trong một đạo luật thống nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng QPXĐ trong nước chỉ là một bộ phận của hệ thống QPXĐ trong tư pháp quốc tế chứ không phải là tất cả. Đối với tư pháp quốc tế Việt Nam cũng vậy, bên cạnh luật trong nước là một loại nguồn quan trọng của tư pháp quốc tế thì các điều ước quốc tế song phương và đa phương đều chứa đựng các QPXĐ điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh. Việt Nam đã tiến hành ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp trong rất nhiều lĩnh vực với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo thành một khối lượng rất lớn các QPXĐ để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong phạm vi của đề tài, khóa luận chỉ đi sâu tìm hiều về các QPXĐ trong BLDS Việt Nam và đây chỉ là một bộ phận của hệ thống QPXĐ trong nước.
Cấu trức của quy phạm xung đột
Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì quy phạm pháp luật thông thường nói chung được cấu thành bởi các bộ phận là: giả định, quy định và chế tài. Tuy nhiên, khác với các quy phạm pháp luật thông thường thì QPXĐ được cấu thành bởi hai bộ phận là phần Phạm vi và phần Hệ thuộc. Và nếu như trong một quy phạm pháp luật thông thường có thể có hoặc không có đầy đủ cả ba bộ phận kể trên thì trong bất kỳ một QPXĐ nào, hai bộ phạn Phạm vi và Hệ thuộc cũng không thể tách rời.
Ví dụ: khoản 1 điều 773 quy định:… Trong QPXĐ này, phần Phạm vi quy định quy phạm này áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cụ thể là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phần Hệ thuộc quy định pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ này là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại.
Phạm vi là phần quy định QPXĐ này được áp dụng cho loại quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào, cụ thể là quan hệ hôn nhân hay quan hệ thừa kế, quan hệ hợp đồng hay quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng… Có thể thấy bộ phận này của QPXĐ có điểm tương đồng với phần giả định của những quy phạm pháp luật thông thường, đó là đều đưa ra hoàn cảnh, tình huống để áp dụng quy phạm. Tuy nhiên nếu như trong phần Giả định của quy phạm pháp luật thông thường đưa ra những tình huống, hoàn cảnh thực tế cụ thể có thể xảy ra trong đời song để xác định được phạm vi điều chỉnh của quy phạm đo thì QPXĐ chỉ dừng lại ở việc đưa ra loại quan hệ pháp luật sẽ được quy phạm điều chỉnh. Điều này có thể thấy được tính khái quát rất cao của QPXĐ trong tư pháp quốc tế.
Hệ thuộc là phần chỉ ra pháp luật nước nào được áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật đã được nêu ra ở phần Phạm vi.
Hiện nay, trong khoa học tư pháp quốc tê tồn tại một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau:
Luật nhân thân (lex personalis): bao gồm hai loại biến dạng là luật quốc tịch ( lex patriae) là luật của quốc gia mà đương sự là công dân và luật nơi cư trú (lex domicilii) được hiểu là luật của nước nơi mà đương sự có nơi cư trú ổn định. Hai kiểu hệ thuộc này đều thuộc quy chế dân sự của cá nhân (status personalis) của nguyên tắc luật nhân thân được sử dụng rộng rãi trong tư pháp quốc tế của nhiều nước trên thế giới mà chủ yếu là trong các quan hệ dân sự liên quan đến vấn đề nhân thân.
Luật quốc tịch của pháp nhân (lex societatis) là luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Quy chế pháp lý này của pháp nhân thường được xác định thông qua một trong ba dấu hiệu cơ bản: nơi trung tâm quản lý của pháp nhân; nơi đăng ký thành lập của pháp nhân; nơi pháp nhân tiến hành hoạt động, kinh doanh chính trên thực tế…
Luật nơi có vật (lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) đang ở đâu thì vật của nước đó sẽ được áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến vật (tài sản) đó. Hệ thuộc này thường được áp dụng để giải quyết các quan hệ về sở hữu có yếu tố nước ngoài.
Luật do các bên ký kết hợp đồng lựa chọn (lex voluntatis) được áp dụng trong các quan hệ về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, chủ yếu là trong lĩnh vực thương mại và hàng hải quốc tế. Quy định của hệ thuộc này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là tự nguyện, tự do ý chí và hoàn toàn bình đẳng thỏa thuận giữa các bên.
Luật nơi thực hiện hành vi (lex loci actus): bao gồm rất nhiều loại như Luật nơi ký kết hợp đồng (lex loci contratus), luật nơi thực hiện nghĩa vụ (lex loci soluntiontis), luật nơi thực hiện hành động (lex loci actus)…
Luật nơi vi phạm pháp luật (lex loci delicti commissi): được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật được giải quyết theo pháp luật nơi có hành vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại. Đây là một hệ thuộc được hình thành từ rất sớm trong tư pháp quốc tế và được ghi nhận trong hầu hết luật của các nước trên thế giới.
Ngoài ra còn có một số hệ thuộc khác như luật nước người bán (lex venditoris), luật tiền tệ (lex monetae), luật tòa án (lex fori)…
Áp dụng pháp luật nước ngoài
Trong thực tế, việc áp dụng các quy phạm xung đột có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Áp dụng pháp luật nước ngoài là “hoạt động thi hành pháp luật quốc gia thông qua việc áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài nhằm điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”. Khi xảy ra hiện tường xung đột pháp luật, cơ quan nhà nước c