Phụ nữ nông thôn là những người phụ nữ sinh sống và làm việc ở nông thôn. Trong cơ cấu dân số, gần 80% phụ nữ Việt Nam sống ở nông thôn. Phụ nữ nông thôn là một cộng đồng người phong phú, đa dạng gồm những dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, trình độ học vấn khác nhau và sinh sống ở những vùng nông thôn khác nhau. Họ hoạt động ở mọi ngành nghề – kể cả những ngành nghề nặng nhọc và độc hại. Theo thống kê, lao động nữ nông thôn chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp (riêng nông nghiệp, lao động nữ chiếm 56,29%) và họ, hiện đang sản xuất ra hơn 60% sản phẩm nông nghiệp. Phụ nữ nông thôn Việt Nam là một trong hai chủ thể kinh tế quan trọng nhất mang lại thu nhập cho các hộ gia đình. Có thể nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của người phụ nữ nói chung và người phụ nữ nông thôn nói riêng, với lý do đó em xin lựa chọn và đi sâu phân tích đề tài: “Quyền của người phụ nữ nông thôn dưới góc độ bình đẳng giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay”.
11 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2385 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền của người phụ nữ nông thôn dưới góc độ bình đẳng giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phụ nữ nông thôn là những người phụ nữ sinh sống và làm việc ở nông thôn. Trong cơ cấu dân số, gần 80% phụ nữ Việt Nam sống ở nông thôn. Phụ nữ nông thôn là một cộng đồng người phong phú, đa dạng gồm những dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, trình độ học vấn khác nhau và sinh sống ở những vùng nông thôn khác nhau. Họ hoạt động ở mọi ngành nghề – kể cả những ngành nghề nặng nhọc và độc hại. Theo thống kê, lao động nữ nông thôn chiếm 58,02% lực lượng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp (riêng nông nghiệp, lao động nữ chiếm 56,29%) và họ, hiện đang sản xuất ra hơn 60% sản phẩm nông nghiệp. Phụ nữ nông thôn Việt Nam là một trong hai chủ thể kinh tế quan trọng nhất mang lại thu nhập cho các hộ gia đình. Có thể nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của người phụ nữ nói chung và người phụ nữ nông thôn nói riêng, với lý do đó em xin lựa chọn và đi sâu phân tích đề tài: “Quyền của người phụ nữ nông thôn dưới góc độ bình đẳng giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm về Bình đẳng giới
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới là mục tiêu và thước đo tiến độ phát triển của một xã hội. Sự bình đẳng giới được thể hiện ở nhiều phương diện, cụ thể như: nữ và nam có điều kiện ngang nhau để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; nữ và nam có cơ hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực của xã hội trong quá trình phát triển; nữ và nam có các quyền lợi ngang nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, bình đẳng giới không chỉ đơn giản là số lượng của phụ nữ và nam giới, hay trẻ em trai và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau, cũng không có nghĩa là nam giới và phụ nữ giống nhau, mà bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội. Đồng thời, sự tương đồng và khác biệt giữa nam và nữ được công nhận. Từ đó nam và nữ có thể trải nghiệm những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng lợi bình đẳng từ công cuộc phát triển của quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
2. Quyền của người phụ nữ nông thôn dưới góc độ bình đẳng giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay và thực trạng
Trong điều kinh tế phát triển như hiện nay, cùng với sự tiến bộ của nhân loại, Việt Nam cũng đã có những bước tiến trong quá trình hướng tới bình đẳng giới thực chất, khi đã công nhận rất nhiều quyền cho người phụ nữ nông thôn, thông qua việc lồng ghép bình đẳng giới vào các văn bản pháp luật của các ngành luật khác. Qua đó, thấy được các quyền của người phụ nữ nông thôn trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt ở lĩnh vực kinh tế, lao động và trong lĩnh vực đời sống gia đình.
2.1 Trong lĩnh vực kinh tế, lao động
* Cơ sở pháp lý:
Công ước CEDAW (Công ước của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” (Convention on the Elimination of all forms of Discrimination against Women) mà Việt Nam là quốc gia tham gia Công ước.
Về lĩnh vực kinh tế, lao động: Công ước CEWDAW quy định Quyền được hưởng các cơ hội làm việc như nhau cũng như những phúc lợi xã hội và Quyền được thù lao như nhau trên cơ sở thành quả làm việc (Điều 11, 14): trên cơ sở bình đẳng, phụ nữ và nam giới có quyền hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, bao gồm cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi tuyển dụng lao động; quyền được hưởng thù lao như nhau, gồm cả phúc lợi, được đối xử như nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau cũng như được đối xử như nhau trong việc đánh giá chất lượng công việc.
Quyền được vay tiền ngân hàng và tham gia các hình thức tín dụng khác (Điều 13, 14): được tiếp cận các loại hình tín dụng và vốn vay dành cho nông nghiệp, các cơ hội thị trường, công nghệ phù hợp.
Quyền của người phụ nữ nông thôn về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở, và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
Nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng và nội luật hoá các cam kết đã được ghi nhận trong Công ước CEDAW. Nhà nước ta đã thể chế hoá những quy định cụ thể trong Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 62, Điều 63), văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bộ luật Lao động năm 1994 sửa đổi bổ sung bằng Luật sửa đổi bổ sung năm 2006, văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh toàn diện các vấn đề lao động và việc làm nói chung, trong đó dành riêng một chương (Chương X) quy định các vấn đề việc làm đối với lao động nữ nói chung, lao động nữ nông thôn nói riêng. Luật Bình đẳng giới 2006 cũng có những quy định: “Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành sản xuất, kinh doanh…”(Điều 12 Khoản 1). Hay như: “Nam, bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng. bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác” (Khoản 1 Điều 13). “Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.” (Điểm b Khoản 2 Điều 12 Luật BĐG).
Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là sự ngang nhau giữa lao động nam và lao động nữ về lĩnh vực lao động, về nghĩa vụ và quyền lợi hay cống hiến và hưởng thụ. Như vậy, không có nghĩa là phải bảo đảm bình đẳng giới theo nghĩa tuyệt đối mà phải giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì có quyền lợi (được hưởng thụ) ngang nhau từ kết quả lao động, việc làm; đồng thời tạo cơ hội như nhau giữa nam và nữ trong phát triển nghề nghiệp, tạo và tìm kiếm việc làm, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội và các điều kiện việc làm khác.
Thực tế: Trên cơ sở quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động như vậy, có thể thấy người phụ nữ có rất nhiều quyền khi tham gia vào lĩnh vực này. So với trước đây, quyền lợi của người phụ nữ đã được đảm bảo hơn rất nhiều thông qua việc ưu tiên trong việc tuyển dụng nhân viên đối với nữ ở một số ngành nghề nhất định, hoặc các ưu đãi cho phụ nữ khi sinh đẻ trong quá trình làm việc tại bất kỳ một doanh nghiệp nào. Người phụ nữ nông thôn cũng được hưởng các quyền như vậy, nhưng phần lớn phụ nữ nông thôn gắn liền các hoạt động nông nghiệp ở nông thôn – nơi mà người phụ nữ nông thôn còn chưa nắm bắt được quyền lợi của mình là rất nhiều. Chính vì thế, quyền và lợi ích của họ trong tìm kiếm, tạo việc làm vẫn chưa được đảm bảo một cách tuyệt đối.
Trên thực tế, khả năng lao động của phụ nữ nông thôn không hề thua kém nam giới, năng suất lao động để kiếm thu nhập của họ còn cao hơn nam giới. Bởi lẽ, ở nông thôn phụ nữ tham gia vào sản xuất nông nghiệp nhiều hơn nam giới, đồng thời phụ nữ còn phải gánh vác các công việc đồng áng, gia đình, con cái dẫn đến thiếu thời gian ngủ, hưởng thụ thành quả. Vì tính chất của công việc là theo mùa vụ, nên trong thời gian nông nhàn, nhiều người phụ nữ đã lên thành phố để kiếm việc làm và có nguy cơ phải đối mặt với nhiều tệ nạn xã hội trong khi họ chưa có kiến thức để phòng tránh. Từ những thực trạng đó, không ít quyền của người phụ nữ nông thôn đã bị ảnh hưởng, không được đảm bảo trên thực tế.
2.2 Trong đời sống gia đình
* Cơ sở pháp lý:
Điều 18 Luật Bình đẳng giới quy định:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện nhu nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình”.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 kế thừa các quy định về bình đẳng giới của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1992 đã đề ra những nguyên tác pháp lý cơ bản nhất nhằm củng cố và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới, thực hiện nam nữ bình đẳng. Điều 52 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Thuật ngữ “công dân” ở đây phải được hiểu là cả nam và nữ. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Điều 64 Hiến pháp quy định: “Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hô nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về vấn đề này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 bảo đảm quyền bình đẳng vợ chồng, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt…; Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định bình đẳng nam nữ trong các quan hệ dân sự, các quyền nhân thân trong đó có các quyền trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (quyền kết hôn, quyền ly hôn…); Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hẳn một chương (Chương XV) về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.
Thực tế: Ở nông thôn, đa số người phụ nữ ngoài việc gánh vác các công việc nông nghiệp, là thu nhập chính cho cả gia đình, nhưng vẫn phải tảo tần sớm khuya để lo cho công việc trong gia đình, chồng con được chu đáo. Nhưng những điều đó dường như là chưa đủ để xóa tan cái gọi là “bất bình đẳng giới” trong đời sống gia đình, vợ chồng. Chỉ vì định kiến giới, các phong tục tập quán đã gây cản trở người phụ nữ có cơ hội được sử dụng quyền của mình một cách bình đẳng trong đời sống gia đình.
Bị coi là phái yếu, nên phụ nữ (nhất là ở nông thôn) hầu như không được tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng trong gia đình. Đặc biệt là trong vấn đề tiếp cận sở hữu ruộng đất, nam giới luôn là người quyết định các quyền tài sản đối với bất động sản đó. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật, việc bảo đảm quyền lợi về ruộng đất là vấn đề hết sức quan trọng đối với phụ nữ ở nông thôn, đặc biệt là phụ nữ làm nông nghiệp. Điều này lại càng đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ ở các vùng sâu, vùng xa, hoặc phụ nữ là người dân tộc thiểu số, họ ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực khác nên đất đai có thể xem như là phương tiện sinh kế duy nhất giúp họ duy trì cuộc sống và thoát nghèo. Mặc dù phong tục truyền thống của Việt Nam thừa nhận cả nam giới và phụ nữ đều được thừa kế đất đai nhưng trên thực tế, ít phụ nữ được đứng tên giấy tờ sử dụng đất. Từ năm 1988 ruộng đất đã được cấp cho các hộ gia đình nông thôn nhưng đa số giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất đều do nam giới đứng tên. Luật Đất đai năm 2003 có quy định tất cả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới phải bao gồm tên của cả hai vợ chồng.
Đặc biệt đáng quan tâm đối với bình đẳng giới gia đình đó là bạo lực gia đình – vấn đề xâm phạm rất lớn đến quyền con người nói chung, phụ nữ nói riêng. Trong đời sống gia đình, người phụ nữ thường không có tiếng nói riêng, mọi việc đều do người đàn ông quyết định. Và khi không cùng chung quan điểm thì bạo hành gia đình xảy ra. Từ đó có thấy qua các vụ bạo lực gia đình, đối tượng bị bạo lực gia đình đa số vẫn là phụ nữ, trẻ em, người già. Trong đó, người vợ là đối tượng bị chính người chồng của mình bạo hành nhiều nhất, chiếm khoảng 95% các vụ bạo hành, cũng có một số ít trường hợp bạo hành ngược – tức người chồng bị vợ hoặc con đánh đập… Qua đó để thấy rõ, quyền của người phụ nữ trong gia đình chưa được đảm bảo một cách tuyệt đối, vẫn còn bị hạn chế do nhận thức sai lầm của một số bộ phân người dân (đặc biệt ở khu vực có dân trí thấp).
3. Giải pháp về chính sách nhằm củng cố và nâng cao quyền của người phụ nữ nông thôn.
Để khắc phục những thách thức nêu trên là cả một quá trình nan giải, lâu dài bởi những thách thức này về cơ bản xuất phát một cách khách quan cùng với sự vận động và biến đổi sâu sắc của nông thôn thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Quá trình này, thường tạo ra những đột biến trong sự chuyển đổi của các xã hội quá độ, điều này càng trầm trọng hơn bởi những đặc thù riêng của xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, trước mắt để hạn chế phần nào những khó khăn, cản trở đối với người phụ nữ nông thôn và góp phần tạo ra những cơ hội phát triển mới cho họ trong tương lai, cần thực hiện một số giải pháp sau:
* Tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tiếp cận các nguồn lực
Không làm chủ được các nguồn lực (đất đai, tài sản, phương tiện sản xuất,…) thì phụ nữ sẽ thuộc “nhóm yếu thế”, không thể tự chủ và khó phát huy được sức mạnh của vai trò nữ giới. Điều này sẽ càng thêm bất lợi nếu như đời sống gia đình của người phụ nữ có vấn đề, gặp chuyện “cơm không dẻo, canh chẳng ngọt” dẫn đến gia đình tan vỡ. Chính vì lẽ đó, cần thúc đẩy việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai theo Luật Đất đai 2003. Đứng tên trong giấy tờ sử dụng đất không chỉ cho phép phụ nữ tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn mà còn nâng cao sự an toàn cho chính họ trong trường hợp ly hôn hoặc thừa kế. Với phụ nữ nông thôn, đất đai là một phương tiện bảo đảm an sinh xã hội đồng thời cũng là phương tiện duy nhất để thoát nghèo. Nghiên cứu cũng cho thấy, so với nam giới thì phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng thường ít có cơ hội trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Vì thế, cần tính đến những khác biệt giữa nam và nữ trong tiếp cận và sử dụng vốn vay tín dụng từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để có chính sách, chế độ riêng đối với nam và nữ nông dân trong triển khai chính sách tín dụng hiện nay.
* Ưu tiên đào tạo nghề và việc làm cho phụ nữ
Quá trình biến động đất đai trong nông nghiệp không chỉ khiến cho nhiều nông dân, nhất là phụ nữ thất nghiệp mà nó còn tác động đến thị trường lao động với những mức độ khác nhau. Với mô hình phân công lao động theo giới hiện nay cộng thêm nam giới di cư đến các vùng đô thị, khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm, phụ nữ nông thôn đảm nhận “đa vai trò” nên có những bất lợi hơn so với nam giới trong việc tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp. Có cơ sở để thấy rằng phụ nữ nông thôn cần được quan tâm đào tạo nghề hơn nam giới, ít nhất là ở mấy lý do: a) phụ nữ là “nhân vật chính” vì họ đảm nhận hầu hết các công việc trồng trọt, chăn nuôi; b) ở các vùng quê nam giới đi làm ăn xa, nếu có ở lại quê thì họ cũng dễ tìm kiếm việc làm và ít gặp rủi ro hơn so với phụ nữ; c) phụ nữ không chỉ gắn với ruộng đồng mà còn gắn với làng xóm vì xu hướng “nữ hóa nông thôn” đang diễn ra; và d) phụ nữ thường gặp trở ngại nhiều hơn nam giới trong cơ hội tiếp cận giáo dục, đào tạo do vẫn còn quan niệm thiên vị giới ở mức độ khác nhau. Trong một phân tích về thay đổi nghề nghiệp trong các khu vực nông thôn cho thấy nam giới thay đổi nghề nghiệp nhiều gấp hơn 2 lần phụ nữ (31,6% và 13,2%). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, xác suất đổi nghề của lao động nam lớn hơn lao động nữ, nếu một phụ nữ có xác suất đổi nghề là 22% thì một lao động nam tương đương có xác suất đổi nghề là 52%. Điều này càng cho thấy sự cần thiết ưu tiên đào tạo nghề, chuyển giao kỹ thuật liên quan đến sản xuất nông lâm ngư nghiệp cho phụ nữ, vì nam giới có tính linh hoạt hơn nữ trong quá trình nắm bắt các cơ hội mới khi chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm.
Mục tiêu của các chính sách trong bộ luật lao động cần phải mang lại lợi ích cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ nghèo, và tạo việc làm nhiều hơn, dù là chính thức hay không chính thức, cho những lao động nữ thiếu kỹ năng. Trong tập huấn, cần chú ý đến những khác biệt giữa nam và nữ trong tiếp cận các dịch vụ khuyến nông, và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Có chính sách ưu tiên chuyển giao khoa học – kỹ thuật và đào tạo nghề cho phụ nữ, nhất là phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, phụ nữ trong các hộ gia đình có ruộng đất thu hồi. Chú ý đến những phẩm chất của phụ nữ thích hợp với các ngành nghề truyền thống… Trong đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật cho phụ nữ nên tính đến đặc điểm phong tục, tập quán, dân tộc và mức độ phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, miền. Chỉ khi chúng ta tính đến những đặc điểm văn hóa – xã hội như vậy mới có thể xây dựng chương trình đào tạo nghề, tạo việc làm phù hợp với điều kiện, năng lực và hoàn cảnh của phụ nữ, và đào tạo nghề mới có hiệu quả.
* Chăm lo sức khỏe và an sinh xã hội cho phụ nữ nông thôn,
Hiện nay phụ nữ nông thôn vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong việc chăm sóc sức khỏe. Để có chính sách ưu đãi nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ nông thôn, nên tập trung vào:
- Sức khỏe sinh sản của phụ nữ: Khi thực hiện chức năng tái sinh sản, người phụ nữ nông thôn hiện nay phải đối diện với những gánh nặng về dân số – kế hoạch hóa gia đình do quan niệm của nam giới “khoán” việc đó cho nữ giới và nam giới thiếu sự tham gia, chia sẻ trách nhiệm trong vấn đề này. Đồng thời, quan tâm đến chất lượng dân số hiện nay không thể coi nhẹ những nội dung liên quan đến sức khỏe sinh sản, quyền sinh sản của người phụ nữ nông thôn.
- Cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt ở nông thôn: Hiện nay, ô nhiễm môi trường sống ở nông thôn và môi trường sản xuất nông nghiệp đã và đang đến mức báo động. Cùng với đó, việc phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản có thể sẽ tác động tiêu cực đến môi trường nếu các biện pháp phòng ngừa thích hợp không được áp dụng. Do vậy, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cần chú trọng đến việc giữ gìn, bảo vệ môi trường nông lâm ngư nghiệp. Có như thế, thì phụ nữ nông thôn mới duy trì được các nguồn thu nhập từ các hoạt động nông lâm ngư nghiệp của mình.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là một số vấn đề quyền của người phụ nữ nông thôn dưới góc độ bình đẳng giới trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay. Qua phân tích thực trạng đồng thời đề ra những giải pháp chúng ta có thể hy vọng rằng quyền của người phụ nữ nông thôn sẽ có nhiều thay đổi theo hướng tích cực và tiến đến bình đẳng thực chất trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Bình đẳng giới là một vấn đề còn khá mới, do đó việc tiếp cận cũng như nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn, vì vậy trong quá trình làm bài chắc chắn sẽ gặp phải những thiếu sót do đó em hi vọng nhận được sự châm chước cũng đóng góp của thầy, cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001);
Công ước CEDAW (Công ước của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ” (Convention on the Elimination of all forms of Discrimination against Women);
3. Luật bình đẳng giới năm 2006;
4. Luật đất đai năm 2003;
5.
6.