Đề tài Quyền hạn của hội đồng nhân dân các cấp

Trên cơ sở nguyên tắc độc lập, tự chủ của các cấp NSNN nói riêng và ba nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN nói chung trong Luật NSNN 2002, Nhà nước đã trao thẩm quyền quyết định những vấn đề ngân sách ở địa phương cho chính quyền địa phương. Theo đó, Nhà nước đảm bảo cho các cấp chính quyền địa phương_các cấp ngân sách có sự độc lập, tự chủ, chủ động ở một chừng mực nhất định trong quá trình thực hiện chức năng của mình nhằm tổ chức thực hiện và quản lý NSNN một cách có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương. Chính vì lí do đó, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, HĐND đã được Nhà nước trao cho quyền quyết định các vấn đề quan trọng của ngân sách ở địa phương. Quyền quyết định về ngân sách ở địa phương của HĐND có cơ sở pháp lý tại Điều 120 Hiến pháp 1992, Luật Tổ thức HĐND và UBND năm 2003 và được quy định rõ nét nhất tại Điều 25 Luật NSNN năm 2002. Cụ thể: - Về việc lập dự toán ngân sách, căn cứ và nhiệm vụ thu, chi được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương mình quản lý, HĐND sẽ quyết định: dự toán NSNN trên địa bàn (bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại), dự toán ngân sách ở địa phương (gồm các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%, phần ngân sách địa phương được các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm, thu bổ sung từ ngân sách cấp trên) và dự toán chi ngân sách địa phương (bao gồm chi ngân sách cấp mình và chi ngân sách địa phương cấp dưới, chi tiết theo các lĩnh vực đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách). - Về việc phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, HĐND quyết định: tổng số chi và mức chi từng lĩnh vực; dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực; mức bổ sung cho ngân sách địa phương cấp dưới (gồm bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu). - HĐND còn có quyền phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định chủ chương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương và điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết. Riêng đối với HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh), ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn chung nêu trên, pháp luật ngân sách còn ấn định cho cơ quan này có quyền quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách địa phương; quyết định tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu quy định tại khoản 2, Điều 30 (về các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) của Luật NSNN 2002 và các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Ngoài ra, HĐND cấp tỉnh còn có quyền quyết định thu phí, lệ phí các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu theo quy định của Chính phủ. Trong trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công tình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì HĐND được phép quyết định huy động vốn, tuy nhiên phải đảm bảo sự cân đối ngân sách cấp tỉnh hành năm để chủ động trả nợ khi đến hạn và mức dư nợ từ nguồn vốn quy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2241 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền hạn của hội đồng nhân dân các cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục Quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước: Quyết định các vấn đề quan trọng của ngân sách ở địa phương: Trên cơ sở nguyên tắc độc lập, tự chủ của các cấp NSNN nói riêng và ba nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN nói chung trong Luật NSNN 2002, Nhà nước đã trao thẩm quyền quyết định những vấn đề ngân sách ở địa phương cho chính quyền địa phương. Theo đó, Nhà nước đảm bảo cho các cấp chính quyền địa phương_các cấp ngân sách có sự độc lập, tự chủ, chủ động ở một chừng mực nhất định trong quá trình thực hiện chức năng của mình nhằm tổ chức thực hiện và quản lý NSNN một cách có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương. Chính vì lí do đó, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, HĐND đã được Nhà nước trao cho quyền quyết định các vấn đề quan trọng của ngân sách ở địa phương. Quyền quyết định về ngân sách ở địa phương của HĐND có cơ sở pháp lý tại Điều 120 Hiến pháp 1992, Luật Tổ thức HĐND và UBND năm 2003 và được quy định rõ nét nhất tại Điều 25 Luật NSNN năm 2002. Cụ thể: Về việc lập dự toán ngân sách, căn cứ và nhiệm vụ thu, chi được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương mình quản lý, HĐND sẽ quyết định: dự toán NSNN trên địa bàn (bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại), dự toán ngân sách ở địa phương (gồm các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%, phần ngân sách địa phương được các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm, thu bổ sung từ ngân sách cấp trên) và dự toán chi ngân sách địa phương (bao gồm chi ngân sách cấp mình và chi ngân sách địa phương cấp dưới, chi tiết theo các lĩnh vực đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách). Về việc phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, HĐND quyết định: tổng số chi và mức chi từng lĩnh vực; dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực; mức bổ sung cho ngân sách địa phương cấp dưới (gồm bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu). HĐND còn có quyền phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định chủ chương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương và điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết. Riêng đối với HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh), ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn chung nêu trên, pháp luật ngân sách còn ấn định cho cơ quan này có quyền quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách địa phương; quyết định tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu quy định tại khoản 2, Điều 30 (về các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) của Luật NSNN 2002 và các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Ngoài ra, HĐND cấp tỉnh còn có quyền quyết định thu phí, lệ phí các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu theo quy định của Chính phủ. Trong trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công tình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì HĐND được phép quyết định huy động vốn, tuy nhiên phải đảm bảo sự cân đối ngân sách cấp tỉnh hành năm để chủ động trả nợ khi đến hạn và mức dư nợ từ nguồn vốn quy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh. Giám sát việc thực hiện ngân sách ở địa phương: Ngoài quyền quyết định các vấn đề quan trọng của ngân sách ở địa phương, Điều 25 Luật NSNN 2002 quy định HĐND còn có quyền giám sát việc thực hiện ngân sách ở địa phương, bao gồm “giám sát việc thực hiện ngân sách đã được HĐND quyết định” và bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách của Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp và HĐND cấp dưới trực tiếp trái luật. Theo đó, nhiệm vụ giám sát của HĐND các cấp được thực hiện dưới những nội dung chủ yếu sau: HĐND thực hịên giám sát việc phân bổ ngân sách địa phương, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới (nếu có) và phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; giám sát việc thực hiện Nghị quyết của HĐND trong lĩnh vực tài chính – ngân sách và các văn bản pháp luật của cấp trên trên địa bàn. Giám sát hoạt động chấp hành các khoản thu ngân sách tại địa phương. Đối với hoạt động chấp hành thu ngân sách, việc giám sát tính hợp pháp của các khoản thu là một khâu quan trọng, bởi vì thực tiễn trong nhiều năm qua đã cho thấy, các khoản thu ngân sách ở nhiều địa phương không được thực hiện hợp pháp. Giám sát hoạt động chấp hành các khoản chi ngân sách tại địa phương. Hoạt động chi ngân sách luôn đặt ra yêu cầu đúng pháp luật, hiệu quả và tiết kiệm, vì vậy vai trò của HĐND trong lĩnh vực này cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với hoạt động chi có nguồn gốc từ đóng góp của công chúng, để hoạt động giám sát có hiệu quả và chất lượng HĐND các cấp cần phối hợp với các tổ chức xã hội tại địa phương. Các phương thức giám sát của HĐND các cấp sử dụng chủ yếu là: nghe báo cáo và chất vấn tại các kỳ họp; tổ chức các đoàn giám sát chung và chuyên đề theo chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt; cử thành viên của đoàn giám sát, tổ chức hữu quan để xem xét và xác minh các vấn đề tài chính – ngân sách; tổ chức nghiên cứu, lập báo cáo giám sát và xem xét, xử lý các kiến nghị, tố cáo của công dân đối với công tác điều hành và quản lý ngân sách;... Thực trạng thực thi quyền hạn của Hội Đồng Nhân Dân các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước và giải pháp hoàn thiện: Thực trạng thực thi quyền hạn của HĐND các cấp trong lĩnh vực ngân sách hiện nay: Về thực thi quyền hạn trong lĩnh vực quyết định các vấn đề quan trọng về ngân sách địa phương: Nếu như trong Luật NSNN năm 1996, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND chỉ được quy định gói gọn trong khoản 1, Điều 25 thì đến Luật NSNN năm 2002 đã tách hẳn phần này ra làm một điều riêng (Điều 25) cho HĐND với 8 khoản rất chi tiết và cụ thể, trong đó có 6 khoản (1,2,3,4,5,8) quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về ngân sách địa phương. Chính điều này đã góp phần không nhỏ trong việc cải tiến rõ rệt việc thực thi quyền hạn trong lĩnh vực quyết định ngân sách (mà chủ yếu là việc quyết định dự toán, phương án phân bổ ngân sách địa phương) của HĐND. Chẳng hạn nếu như trước đây, HĐND chỉ quyết định con số phân bổ tổng quát còn chi tiết cụ thể giao cho UBND thực hiện, dẫn đến tâm lý “qua loa”, “đại khái” của HĐND khi xem xét các vấn đề ngân sách thì giờ đây, các HĐND đã ban hành rất nhiều nghị quyết về phân cấp, phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi và định mức phân bổ chi tiết dự toán chi thường xuyên ngân sách các cấp thuộc ngân sách địa phương. Thêm vào đó, một số HĐND đã ban hành nghị quyết về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển từ nguồn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung. Ngoài ra cũng đã có những nghị quyết chuyên đề trong những lĩnh vực quan trọng như đê điều, phát triển khoa học kĩ thuật,… Những việc làm đó đã giúp cho việc phân bổ dự toán ngân sách được công khai, minh bạch hơn, góp phần nâng hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước, làm tăng tích luỹ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… Các hoạt động này của HĐND đã từng bước thể hiện thế chủ động gắn với tinh thần trách nhiệm cao của chính quyền địa phương. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tiến bộ, việc thực thi quyền hạn trong lĩnh vực quyết định ngân sách ở địa phương vẫn còn gặp một số khó khăn và hạn chế nhất định. Cụ thể: + Thứ nhất, trên thực tế, trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách, HĐND các cấp thường giành sự quan tâm nhiều đến chỉ tiêu phấn đấu bao nhiêu, phân bổ ngân sách (cách chia cái bánh) hơn là quyết toán ngân sách (cách sử dụng cái bánh) và giải pháp gì để đảm bảo các chỉ tiêu trong kế hoạch và dự toán đã quyết. Trong các cuộc họp chính thức bàn về ngân sách, rất ít ý kiến trái chiều và đại bộ phận các đại biểu đồng ý với dự toán và phương án phân bổ do UBND đưa ra. + Thứ hai, hiện nay theo quy định của pháp luật ngân sách, quy trình ngân sách ở nước ta được đánh giá là khá phức tạp, thời gian xây dựng dự toán và quyết toán ngân sách kéo dài trong khi thời gian cho mỗi cấp ngân sách lại rất hạn chế, trách nhiệm của từng cấp chưa rõ ràng, chưa thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới. Bên cạnh đó, hiện nay chúng ta đang thí điểm không tổ chức HĐND ở một số quận, huyện, phường theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng, theo đó sẽ không có ngân sách ở một số quận, huyện, phường. Chính vấn đề này đã và đang tạo nên sự khó khăn rất lớn cho việc thực thi quyền hạn của HĐND, đặc biệt là khi tham gia thiết kế và quyết định phê chuẩn nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương. Chính những lí do này đã dẫn đến thực trạng nhiều khi HĐND quyết định dự toán không đúng với chỉ tiêu giao dự toán của Chính phủ về chi đầu tư phát triển, chi cho giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ,... Thêm vào đó, tính lồng ghép này không khuyến khích cấp dưới tự cân đối thu, chi, lập dự toán tích cực nên thực tế đã nảy sinh xu hướng nhiều HĐND quyết định dự toán thu thấp, dự toán chi cao để được nhận trợ cấp nhiều hơn,... + Thứ ba, Luật NSNN hiện hành quy định không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ (khoản h, Điều 4). Tuy nhiên trên thực tế một số HĐND ở địa phương hiện nay có điều kiện về ngân sách đã hỗ trợ thêm cho các cơ quan Trung ương ở địa phương (cơ quan tư pháp, công an, quân đội…). Việc hỗ trợ này tạo thêm nguồn lực tài chính cho các cơ quan Trung ương để thực hiện nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương. Điều này làm tăng tính đoàn kết hỗ trợ của các cơ quan ở địa phương với mục tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tuy nhiên lại trái luật. Về vấn đề giám sát việc thực hiện ngân sách ở địa phương của HĐND: - Trong những năm vừa qua, hoạt động giám sát việc thực hiện ngân sách ở địa phương của HĐND đã đạt được một số tiến bộ quan trọng, có thể kể đến như: + Thứ nhất, trên khía cạnh pháp luật, Luật NSNN năm 2002 ngoài việc quy định chức năng giám sát của HĐND tại khoản 6, Điều 25 đã bổ sung thêm quyền bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật về tài chính - ngân sách của UBND cùng cấp và HĐND cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên ở khoản 7 của điều trên. Điều đó mở rộng khả năng giám sát của HĐND, không chỉ trong kiểm tra mà cả xử lí văn bản vi phạm. Chính nhờ cơ sở pháp lý này mà hiện nay, việc phát hiện và xử lí các văn bản vi phạm các quy định về ngân sách của HĐND đang diễn ra ngày càng nhiều và có hiệu quả hơn. Nhiều văn bản trái luật, đặc biệt là các văn bản quy định việc sử dụng ngân sách của các cơ quan chính quyền địa phương đã được phát hiện và kịp thời đình chỉ thi hành, thậm chí hủy bỏ để đảm bảo trật tự quản lý và sử dụng quỹ ngân sách của địa phương. + Thứ hai, trong thời gian gần đây, tại một số tỉnh, Ban Kinh tế và Ngân sách của HĐND đã không ngừng đổi mới phương thức hoạt động, thực hiện nhiều biện pháp giám sát mang lại hiệu quả thiết thực như: giám sát thường xuyên, giám sát chuẩn bị cho kì họp, giám sát theo chuyên đề,… Đặc biệt là công tác giám sát giữa hai kì họp đã được chú trọng bằng việc cụ thể hóa và tổ chức giám sát theo từng quý từng tháng việc thực hiện ngân sách. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, nhiều tỉnh còn chú trọng nghiên cứu, kết hợp các phương thức, cách thức tổ chức giám sát với nhau, như kết hợp giám sát tình hình thực hiện nghị quyết của HĐND tỉnh về các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế, đầu tư xây dựng cơ bản, dự toán NSNN với tăng cường giám sát theo chuyên đề; kết hợp giám sát trực tiếp tại đơn vị cơ sở với giám sát qua xem xét các báo cáo; thực hiện phối hợp với Đoàn Đại biểu Quốc hội ở tỉnh, các Ban HĐND tỉnh tổ chức giám sát những nội dung có liên quan, đảm bảo các cuộc giám sát không chồng chéo, có chất lượng, mang lại hiệu quả thiết thực. + Thứ ba, việc giám sát sổ sách giấy tờ chuẩn bị cho kì họp chính cũng được quan tâm hơn. Các cơ quan kinh tế và ngân sách của các HĐND đã chủ động làm việc với các cơ quan chuyên môn soạn thảo các báo cáo, đề án, tờ trình, thu thập thông tin, văn bản liên quan, ngoài ra cũng đã dành thời gian thỏa đáng cho việc đọc, nghiên cứu, đối chiếu nội dung các báo cáo, đề án, tờ trình với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy, nghị quyết của HĐND tỉnh nên đã tham gia, đóng góp, phản biện được nhiều ý kiến về thể thức, bố cục, nội dung, nhận định, đánh giá, cơ sở, phương thức, cách tính, tổng hợp thông tin, số liệu… giúp cho các cơ quan chuyên môn rà soát, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng các báo cáo, đề án, tờ trình, dự thảo giám sát, nâng cao chất lượng các kỳ họp HĐND tỉnh. - Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, hoạt động giám sát của HĐND các cấp vẫn còn rất hời hợt, lỏng lẻo và kém hiệu quả. Điều này thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây: + Thứ nhất, cơ chế phối hợp giữa các đại biểu HĐND còn chưa thực sự chặt chẽ, các vấn đề đưa ra để chất vấn trong các kì họp chủ yếu dựa vào ý kiến của các ban chuyên trách hoặc Thường trực HĐND hơn là sự chủ động của từng đại biểu. Việc tổ chức các đoàn giám sát nhiều khi khó thực hiện được bởi các thành viên (thường là các đại biểu không chuyên trách) không tham gia đầy đủ vì lí do công vụ. + Thứ hai, việc giám sát (và bên cạnh đó là cả quyết định dự toán và phân bổ ngân sách nữa) còn thiếu tính thực địa và khách quan. Thông tin để nghiên cứu và thẩm định trước khi ra quyết định phần lớn dựa trên thông tin từ cơ quan công quyền là chủ yếu (các báo cáo đánh giá hàng quý, hàng năm,…). Nói cách khác, hình thức giám sát chính vẫn là thông qua các văn bản và ý kiến của cơ quan công quyền. Mặc dù hình thức giám sát thực địa ở nhiều HĐND các cấp đã được chú trọng hơn trong những năm gần đây, tuy nhiên con số đó vẫn còn ít ỏi, thiếu sự chủ động, tích cực của các đại biểu. Giám sát định kì là chủ yếu, rất ít tổ chức giám sát theo chuyên đề hoặc đột xuất. Không chỉ có vậy, một thực tế còn tồn tại là trong quá trình giám sát của HĐND thường có đại diện của các cơ quan, ban, ngành khác đi cùng, điều này đã làm hạn chế tính khách quan của các luồng thông tin. Một đại biểu HĐND của một huyện tại tỉnh Hòa Bình thừa nhận: “khi mời các phòng ban huyện tham gia giám sát thì thực chất là vừa đá bóng vừa thổi còi, nhưng nếu không có phòng ban huyện tham gia thì không đủ chuyên môn để giám sát”. Chính bởi những hạn chế trong việc quản lý và giám sát của HĐND trong lĩnh vực ngân sách như vậy mà hiện nay, hiện tượng thất thoát, lãng phí ngân sách địa phương đang ngày càng trở nên phổ biến và thậm chí ở nhiều nơi đang lên đến mức báo động. Đã có không ít những vụ việc gây bức xúc lớn cho xã hội như các công trình phục vụ cho giao thông (hầm đường bộ, cầu qua đường,…), y tế (bệnh viện,…), sản xuất kinh doanh (nhà máy chế biến hoa quả, trạm bơm phục vụ tưới tiêu,…), các công trình phục vụ cho sinh hoạt, ăn, ở của nhân dân (các khu tái định cư, nhà máy nước sạch cho địa phương, trường học,…),… được địa phương quyết định chi đầu tư rất nhiều tiền của, nhưng khi hoàn thành thì đều phải “kéo chiếu”, “đắp mền” vì không có hiệu quả, chất lượng rất kém, xuống cấp nhanh chóng, không có ý nghĩa sử dụng, không có nguyên liệu để phục vụ sản xuất (như với các nhà máy) hoặc không có đủ nhân viên để tham gia vận hành công trình (ví dụ không đủ bác sĩ để làm trong bệnh viện mới xây),… Nguyên nhân của những bất cập trong việc thực thi quyền hạn của Hội đồng nhân dân: Những hạn chế, bất cập nêu trên về việc thực thi quyền hạn của HĐND có thể được lý giải bởi các nguyên nhân sau đây: - Pháp luật về NSNN hiện hành tuy đã trao phần lớn quyền hạn cho HĐND trong phân bổ ngân sách địa phương nhưng quyền lực đó trên thực tế vẫn mang tính hình thức. Bởi lẽ, Quốc hội về cơ bản nắm toàn quyền quyết định dự toán ngân sách cho cả nước. Về mặt pháp lý, HĐND được quyền quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, phê chuẩn ngân sách địa phương do UBND cùng cấp đệ trình (khoản 2, 3 Điều 45 Luật NSNN 2002). Tuy nhiên, việc quyết định đó của HĐND vẫn phải căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao, chịu sự ràng buộc của cấp trên (Điều 45). Nghị quyết dự toán ngân sánh của HĐND phải đặt dưới sự kiểm tra của Chính phủ (đối với HĐND cấp tỉnh) hoặc UBND cấp trên (đối với HĐND cấp huyện và xã) (Điều 47). Việc lệ thuộc quá nhiều vào cấp trên như vậy đã khiến cho HĐND cấp dưới hoạt động thiếu tính tự chủ, năng động, sáng tạo. Hơn nữa, việc phân cấp quản lí, mở rộng hơn quyền hạn của HĐND trong Luật NSNN 2002 so với luật 1996 tuy rằng tăng tính chủ động cho HĐND địa phương nhưng lại không quy định rõ ràng những lĩnh vực mà HĐND có thể tự quyết. Vậy nên mới dẫn đến tình trạng tỉ lệ phân bổ ngân sách ở một số nơi không đảm bảo đúng với quy định của cấp trên đã đề ra hoặc HĐND cấp trên phân bổ ngân sách không hợp lý cho cấp dưới (thậm chí có nơi cấp huyện tùy tiện chiếm dụng các nguồn thu điều tiết, chi bổ sung cho ngân sách xã vào mục đích khác, gây khó khăn cho hoạt động của xã). - Những hạn chế trong việc thực thi quyền hạn của HĐND các cấp trong lĩnh vực NSNN cũng xuất phát từ bản chất của hệ thống ngân sách nước ta là một hệ thống mang tính lồng ghép. Cụ thể, hệ thống NSNN hiện nay bao gồm ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, trong đó, ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có HĐND và Ủy ban nhân dân, cụ thể là ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã; ngân sách cấp dưới là một bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên. Quy định lồng ghép của hệ thống NSNN cơ bản đảm bảo tính thống nhất và tính tuân thủ của các cấp ngân sách. Tuy nhiên, cũng do tính lồng ghép này mà quy trình ngân sách khá phức tạp, thời gian xây dựng dự toán và quyết toán ngân sách kéo dài trong khi thời gian cho mỗi cấp lại rất hạn chế, trách nhiệm của từng cấp không rõ ràng, không thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới. - Một nguyên nhân khác nữa chính là ở bản thân HĐND. HĐND hoạt động chủ yếu diễn ra trong các kì họp, tức chỉ mang tính chất “mùa vụ” không thường xuyên, dàn trải về nội dung do đó không thể nắm bắt được đầy đủ thông tin cũng như đủ khả năng chuyên môn như UBND – cơ quan hoạt động thường trực, với chức năng chấp hành, thực hiện các hoạt động của Nhà nước, trong đó có lĩnh vực ngân sách. Đến mỗi kì họp, HĐND nghe UBND báo cáo và sau đó quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán dựa trên đệ trình từ UBND (và thực tế các nguồn thi, nhiệm vụ chi,... trong đó chủ yếu đã được cấp trên xét duyệt). Hơn nữa, theo thống kê của các cơ quan nội vụ của nhà nước (như Bộ Nội vụ, các Sở Nội vụ,...) các đại biểu HĐND chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm, phần lớn có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận, chính trị cũng trình độ quản lý nhà nước (đặc biệt là các đại biểu ở cấp xã) còn hạn chế. Chưa kể, nhiều đại biểu HĐND còn hạn chế trong việc tham gia phát biểu ý kiến và chất vấn của đại biểu tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp, chưa phát huy hết vai trò của mình, còn ngại chất vấn những vấn đề tồn tại ở địa phương và chính kiến của đại biểu khác về các nội dung kỳ họp,... Nhiều đại biểu còn chưa thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ tiếp xúc cử tri, còn vắng mặt trong các đợt tiếp xúc, chưa báo cáo hoạt động của đại biểu tại kỳ tiếp xúc cuối năm, các đại biểu chưa phân loại được ý kiến cử tri theo đúng chức năng của các cơ quan có thẩm quyền, tổng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBT nhom 1 TC .doc
  • docLMD.doc
Luận văn liên quan