Trong xu thế hội nhập hiện nay, quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ của Việt Nam với các nước trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng. Đặc biệt, hiện nay nước ta đã hội nhập với thế giới và đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nên số lượng người nước ngoài vào Việt Nam sẽ ngày càng tăng thông qua nhiều con đường khác nhau. Điều này đòi hỏi nước ta phải có một quy chế pháp lí phù hợp cho những đối tượng này nhất là trong lĩnh vực sở hữu tài sản. Bởi vì, đảm bảo quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này cũng chính là làm tăng thêm lợi ích của quốc gia. Đồng thời, ngày càng thúc đẩy và mở rộng hơn quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trên nhiều lĩnh vực, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là nhà nước ta đã có những chính sách hay quy định nào về quyền sở hữu của những đối tượng này.
Việc nghiên cứu đề tài “quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những quy định của Việt Nam về quyền sở hữu của người nước ngoài. Từ đó, góp phần hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với tình hình hiện nay, đảm bảo hơn chế độ đãi ngộ như công dân mà Việt Nam dành cho người nước ngoài. Việc đảm bảo quyền sở hữu người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng như chúng ta đảm bảo mối quan hệ với các nước là góp phần làm Việt Nam ngày càng phát triển hơn
Nhằm để đảm bảo cho việc nghiên cứu có hiệu quả, đồng thời, giúp người đọc có thể nắm rõ và hiểu sâu sắc vấn đề hơn. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài trên những tài sản hữu hình được phân loại thành bất động sản và động sản. Và cũng trong phạm vi đề tài của mình, người viết chỉ tìm hiểu quyền sở hữu tài sản mà nhà nước dành cho đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và cá nhân nước ngoài là người chưa có quốc tịch Việt Nam. Chủ thể có yếu tố nước ngoài bao gồm: người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người Việt Nam đã thôi quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam, người mang quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ nghiên cứu quyền sở hữu tài sản trên động sản và bất động sản của đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài, người mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa từng mang quốc tịch Việt Nam, mà thôi.
Với mục đích hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất, người viết đã vận dụng một số phương pháp như: phương pháp phân tích luật viết, thu thập tài liệu, đánh giá, so sánh đối chiếu để nghiên cứu đề tài của mình.
Bên cạnh lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương
- Chương 1: “Lí luận chung về tài sản và quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam”.Chương này tác giả giới thiệu một cách khái quát về tài sản và quyền sở hữu giúp người đọc nắm được: tài sản là gì? Có các loại tài sản nào theo cách phân loại của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu là gì? Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam và cách giải quyết xung đột về quyền sở hữu của các nước như thế nào?
- Chương 2: “Pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài”. Trong chương này, người đọc sẽ biết được người nước ngoài được quyền sở hữu những động sản nào và những bất động sản nào. Đối với quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài, người viết tập trung nghiên cứu những quy định của Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà tại Việt Nam.
- Chương 3: “Thực trạng và một số ý kiến đề xuất”. Tác giả sẽ nêu lên thực trạng quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay được bảo đảm như thế nào và nêu một số ý kiến về vấn đề sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều nổ lực trong quá trình nghiên cứu nhưng do đây là đề tài mới, thời gian và nguồn tài liệu tham khảo có hạn, bên cạnh đó do kiến thức tác giả còn hạn hẹp, lại chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế nên những ý tưởng trong đề tài này phần lớn còn mang tính lí thuyết và không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót mong quý thầy cô tận tình chỉ dẫn để bài viết được hoàn thiện hơn
Sau cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa luật Trường đại học Cần Thơ và giáo viên hướng dẫn Th.S Diệp Ngọc Dũng đã tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành tốt đề tài này.
61 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3130 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập hiện nay, quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ… của Việt Nam với các nước trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng. Đặc biệt, hiện nay nước ta đã hội nhập với thế giới và đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nên số lượng người nước ngoài vào Việt Nam sẽ ngày càng tăng thông qua nhiều con đường khác nhau. Điều này đòi hỏi nước ta phải có một quy chế pháp lí phù hợp cho những đối tượng này nhất là trong lĩnh vực sở hữu tài sản. Bởi vì, đảm bảo quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này cũng chính là làm tăng thêm lợi ích của quốc gia. Đồng thời, ngày càng thúc đẩy và mở rộng hơn quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trên nhiều lĩnh vực, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là nhà nước ta đã có những chính sách hay quy định nào về quyền sở hữu của những đối tượng này.
Việc nghiên cứu đề tài “quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những quy định của Việt Nam về quyền sở hữu của người nước ngoài. Từ đó, góp phần hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với tình hình hiện nay, đảm bảo hơn chế độ đãi ngộ như công dân mà Việt Nam dành cho người nước ngoài. Việc đảm bảo quyền sở hữu người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng như chúng ta đảm bảo mối quan hệ với các nước là góp phần làm Việt Nam ngày càng phát triển hơn
Nhằm để đảm bảo cho việc nghiên cứu có hiệu quả, đồng thời, giúp người đọc có thể nắm rõ và hiểu sâu sắc vấn đề hơn. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài trên những tài sản hữu hình được phân loại thành bất động sản và động sản. Và cũng trong phạm vi đề tài của mình, người viết chỉ tìm hiểu quyền sở hữu tài sản mà nhà nước dành cho đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và cá nhân nước ngoài là người chưa có quốc tịch Việt Nam. Chủ thể có yếu tố nước ngoài bao gồm: người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người Việt Nam đã thôi quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam, người mang quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch … Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ nghiên cứu quyền sở hữu tài sản trên động sản và bất động sản của đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài, người mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa từng mang quốc tịch Việt Nam, mà thôi.
Với mục đích hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất, người viết đã vận dụng một số phương pháp như: phương pháp phân tích luật viết, thu thập tài liệu, đánh giá, so sánh đối chiếu… để nghiên cứu đề tài của mình.
Bên cạnh lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương
Chương 1: “Lí luận chung về tài sản và quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam”.Chương này tác giả giới thiệu một cách khái quát về tài sản và quyền sở hữu giúp người đọc nắm được: tài sản là gì? Có các loại tài sản nào theo cách phân loại của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu là gì? Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam và cách giải quyết xung đột về quyền sở hữu của các nước như thế nào?
Chương 2: “Pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài”. Trong chương này, người đọc sẽ biết được người nước ngoài được quyền sở hữu những động sản nào và những bất động sản nào. Đối với quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài, người viết tập trung nghiên cứu những quy định của Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà tại Việt Nam.
Chương 3: “Thực trạng và một số ý kiến đề xuất”. Tác giả sẽ nêu lên thực trạng quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay được bảo đảm như thế nào và nêu một số ý kiến về vấn đề sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều nổ lực trong quá trình nghiên cứu nhưng do đây là đề tài mới, thời gian và nguồn tài liệu tham khảo có hạn, bên cạnh đó do kiến thức tác giả còn hạn hẹp, lại chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế nên những ý tưởng trong đề tài này phần lớn còn mang tính lí thuyết và không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót mong quý thầy cô tận tình chỉ dẫn để bài viết được hoàn thiện hơn
Sau cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa luật Trường đại học Cần Thơ và giáo viên hướng dẫn Th.S Diệp Ngọc Dũng đã tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành tốt đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Chương 1LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Ở Việt Nam, người nước ngoài được quyền sở hữu những nào và nội dung quyền sở hữu của họ đối với những tài sản đó như thế nào đều do pháp luật Việt Nam điều chỉnh. Vậy, theo pháp luật Việt Nam, tài sản là gì và quyền sở hữu tài sản thực chất là những quyền năng gì?
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN
Tài sản, được coi là khách thể của quyền sở hữu đã được qui định tại Điều 163 BLDS năm 2005. Nhưng những qui định này chỉ mang tính chất liệt kê, xác định những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài sản. Vậy tài sản là gì và chúng được phân loại như thế nào trong pháp luật Việt Nam ?
1.1.1Khái niệm tài sản
Thật ra, từ khi bộ luật dân sự đầu tiên được ban hành cho đến bộ luật dân sự hiện nay đang có hiệu lực thì không có bất kì điều luật nào nêu khái niệm tài sản là gì. Khi đó, tài sản được người ta hiểu một cách chung nhất và luật chỉ nêu ra quy định những gì là tài sản. Tuy nhiên, đó là cơ sở pháp lí quan trọng để ta xác định một vật có phải là tài sản trong quan hệ pháp luật hay không.
1.1.1.1 Khái niệm tài sản
Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm điện tử tin học xuất bản năm 1997 thì tài sản được khái niệm như sau: “Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”. Theo khái niệm này thì thuật ngữ tài sản có thể được hiểu theo hai cách:
Thứ nhất, về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng. “Của cải” là một khái niệm luôn biến đổi và tự hoàn thiện cùng với sự hoàn thiện về giá trị vật chất. Ở La Mã cổ xưa, nhắc đến tài sản người ta liên tưởng ngay đến những của cải trong gia đình như ruộng đất, nhà cửa gia súc… Còn trong xã hội hiện đại ngày nay, ngoài của cải trong gia đình, chúng ta còn có một số tài sản đặc biệt như, năng lượng hạt nhân, phần mềm máy vi tính…
Thứ hai, trong ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, tài sản là một vật cụ thể mà có thể nhận biết bằng các giác quan và được con người sử dụng trong đời sống hàng ngày như bàn ghế, xe máy Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 5
,…
Theo BLDS Việt Nam thì không định nghĩa tài sản là gì nhưng tại điều 172 Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 có qui định: “tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Khi BLDS 2005 ra đời có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 thay thế BLDS 1995 thì tài sản được qui định bao gồm “vật, tiền giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, BLDS 1995 và BLDS 2005 đều qui định tài sản gồm có vật. Tuy nhiên, điều 163 BLDS 2005 qui định tài sản là “vật”, mà không qui định “vật có thực” như qui định tại điều 172 BLDS 2005. Việc bỏ qui định vật có thực đã mở rộng nội hàm của vật, vật có thể đang tồn tại hiện thực và vật chắc chắn được hình thành trong tương lai có thể xác định được. Qui định về vật tại điều 163 BLDS 2005 về vật phù hợp hơn với đời sống thực tế và các giao lưu dân sự trong cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, các bên tham gia giao dịch có thể thỏa thuận về đối tượng của giao dịch là vật được hình thành trong tương lai.
Theo luật định thì “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Vật là những vật chất đang tồn tại trong tự nhiên hoặc đang được hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, không phải mọi vật đều là tài sản. Vật là tài sản phải thỏa mãn các dấu hiệu sau đây:
Vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình thành trong tương lai
Vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được và phải chiếm hữu được
Vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi, vật đó phải khai thác được về phương diện tài sản như dân sự, thương mại, tiêu dùng… đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần con người
Vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản, có thể trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay qui đổi được thành tiền Phùng Trung Tập, Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 11/2007, trang 22
Tiền, theo kinh tế học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hóa và là phương tiện lưu thông trong đời sống của con người Giáo trình kinh tế chính trị, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002
. Về mặt chính trị, đó còn là đại diện cho chủ quyền của một quốc gia, đòi hỏi người có tiền không thể có toàn quyền định đoạt loại tài sản đặc biệt này mà phải tuân thủ những qui định nghiêm ngặt của Nhà nước. Do đó, tiền có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ, nhà xuất bản giáo dục, 2008
…Điều 163 BLDS 2005 thay cụm từ: “giấy tờ trị giá được bằng tiền” ở điều 172 BLDS 1995 bằng cụm từ “giấy tờ có giá” làm cho điều luật vừa ngắn gọn vừa chính xác. Vì thực tế có nhiều loại giấy tờ không được trị giá được bằng tiền nhưng lại có giá trị rất lớn như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà….
Các quyền tài sản là những quyền gắn liền với một tài sản hoặc khi thực hiện quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài sản. “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ” Điều 181 BLDS 2005
. Từ qui định trên ta nhận thấy quyền tài sản là tài sản và một quyền tài sản phải có đủ hai yếu tố: trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các quyền tài sản đều phải có đầy đủ hai yếu tố trên mới trở thành quyền tài sản. Thực ra, tính chất tài sản của quyền có các cấp độ khác nhau: đầy đủ, không đầy đủ và không có. Quyền tài sản được quy định tại điều 181 BLDS 2005 là quyền có đầy đủ tính chất tài sản. Các quyền như quyền bầu cử, quyền tự do ngôn luận…không trị giá được bằng tiền và không thể chuyển nhượng được nên các quyền này không có tính chất tài sản.
Ví dụ: cổ phiếu của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết trong công ty cổ phần cũng là tài sản nhưng không thể chuyển nhượng được.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì tài sản là của cải vật chất được con người dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Cụ thể hơn tài sản được luật qui định bao gồm vật tiền giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
1.1.1.2 Phân loại tài sản
Tài sản có thể được phân loại theo nhiều cách. Trong luật La tinh tài sản được phân loại thành động sản và bất động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình, vật tiêu hao và vật không tiêu hao, vật cùng loại và vật đặc định, vốn và lợi tức, vật được sở hữu và vật không được sở hữu, tài sản công và tài sản tư. Trong luật Anh-Mỹ thì tài sản được phân loại thành quyền đối vật và quyền đối nhân, đất đai và các tài sản khác bao gồm tiền, động sản hữu hình mà không phải là tiền Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 26
.Chương XI BLDS 2005 qui định về các loại tài sản. Trong đó có xây dựng các khái niệm động sản và bất động sản, vật đặc định và vật cùng loại, vật chính và vật phụ,…Như vậy, luật Việt Nam có xu hướng phân loại tương tự như luật La tinh.
* Động sản và bất động sảnĐây là cách phân loại đầu tiên nhất. Theo đó:Bất động sản là các tài sản bao gồm:- Đất đai- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó- Các tài sản gắn liền với đất đai;- Các tài sản khác do luật qui định.Động sản là những tài sản không phải là bất động sản BLDS 2005, điều 174
Khác với BLDS 1995, BLDS 2005 không đưa ra khái niệm bất động sản mà chỉ liệt kê những loại tài sản nào là bất động sản. Thực ra, điều 181 BLDS 1995 đưa ra khái niệm “bất động sản là các tài sản không di dời được” cũng chưa thật bao quát, và nó mâu thuẫn ngay với một số loại tài sản được coi là bất động sản như “các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng” qui định trong cùng một điều luật đó. Nó mâu thuẫn bởi vì tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng vẫn có thể đi chuyển được. Như vậy, qui định về bất động sản ở điều 174 BLDS 2005 phù hợp hơn. Điều luật đã liệt kê các tài sản là bất động sản, còn những tài sản nào là động sản luật không qui định chi tiết mà chỉ bỏ ngỏ bằng một quy phạm mở. Như vậy, danh mục tài sản là động sản sẽ được bổ sung ngay trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Điều này cho phép ta khẳng định rằng bất kì tài sản nào cũng chỉ có thể là bất động sản hoặc là động sản. Ngoài cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản thì người ta còn có các cách phân loại khác như sau:
* Căn cứ vào nguồn gốc sinh ra của tài sản ta có cách phân loại tài sản thành hoa lợi, lợi tức.
Điều 175 BLDS qui định “Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại”, “Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”. Nói một cách tổng quát, hoa lợi, lợi tức là những vật có giá trị tiền tệ do tài sản sinh ra. Ta gọi tài sản sinh ra hoa lợi, lợi tức là tài sản gốc. Tuy nhiên việc phân biệt tài sản gốc và hoa lợi, lợi tức trong nhiều trường hợp không thể rạch ròi được bởi một số trường hợp hoa lợi, lợi tức được tiêu dùng, biến mất hoặc được tích lũy để trở thành tài sản đầu tư và tiếp tục sinh lợi. Chỉ được gọi là hoa lợi, lợi tức những tài sản sinh ra từ tài sản gốc mà không làm giảm sút chất liệu của tài sản gốc (ở mức độ có thể nhận thấy được). Trong trường hợp để thu được một lợi ích vật chất từ tài sản gốc mà không thể tái tạo bằng cách khai thác khả năng sinh lợi của tài sản gốc hoặc chỉ có thể tái tạo bằng cách lặp lại một chu kì đầu tư nhằm khôi phục chất liệu của tài sản gốc, thì lợi ích thu được đó chính là sản phẩm mà không phải là hoa lợi, lợi tức.
Ví dụ: Một vườn cây ăn trái. Nếu trái cây được thu hoạch thì ta có hoa lợi; nếu cây ăn trái được đốn xuống bán lấy gỗ thì ta có sản phẩm. Bởi vì, việc thu hoạch trái không ảnh hưởng đến sức sinh sản của vườn cây còn việc đốn cây bán gỗ chỉ có thể khôi phục khả năng sinh lợi sau một thời gian tái đầu tư lớn.
Từ những phân tích trên thì suy cho cùng thì hoa lợi, lợi tức đều là động sản. Hay cụ thể hơn, hoa lợi lợi tức là tài sản có thể được sinh ra từ bất động sản nhưng bản thân nó lại là một động sản.
* Căn cứ vào tính chất, chức năng của tài sản thì có thể chia tài sản thành vật chính và vật phụ.
Theo điều 176 BLDS 2005 thì: “Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác công dụng theo tính năng. Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, nhưng có thể tách rời vật chính. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính thì phải chuyển giao cả vật phụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Từ nội dung của điều luật ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Vật chính có thể nhận biết với đầy đủ đặc điểm về cấu tạo, tính năng mà không cần vật phụ. Chẳng hạn như bàn, ghế, quần áo…
Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, mà thông thường làm tăng giá trị cho vật chính nhưng không hẳn là yếu tố không thể thiếu của vật chính. Ví dụ: kính lọc của màn hình máy vi tính, kính chiếu hậu của xe gắn máy…
Vật phụ sẽ đảm nhận vai trò phụ khi gắn liền với vật chính
Vật phụ khi tách rời vật chính có thể sẽ không hữu dụng, tuy nhiên vật chính có thể tiếp tục khai thác và sử dụng được.
Khi vật chính được mua bán, tặng cho, trao đổi, di tặng…Thì vật phụ cũng mặc nhiên đi theo nếu không có thỏa thuận khác.
Như vậy, vật chính có thể là động sản nhưng cũng có thể là bất động sản còn vật phụ luôn luôn là động sản khi tách rời vật chính.
* Vật chia được và không chia được
Điều 177 BLDS qui định:
“Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Vật không chia được là vật khi bị chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá bằng tiền để chia”
Thực ra, các khái niệm “vật chia được” và “vật không chia được” không liên quan đến vấn đề phân loại tài sản mà chủ yếu liên quan đến việc thực hiện quyền sở hữu chung theo phần Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 51
.
Ví dụ: Một vườn cây ăn trái khi được chia thì không làm ảnh hưởng đến khả năng cho trái và cũng không làm thay đổi thành phần, tính năng của đất. Ngược lại, căn nhà không thể chia đôi khi vợ chồng li hôn. Nếu căn nhà được chia đôi thì nó không còn giữ nguyên được tính năng sử dụng ban đầu nữa. Trong trường hợp này người vợ hoặc người chồng được chia căn nhà thì phải định giá căn nhà để trả phân nữa giá trị căn nhà cho người còn lại.
* Căn cứ vào mức độ hao mòn của tài sản khi sử dụng thì có thể phân loại tài sản thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao
Theo điều 178 BLDS 2005 thì: “Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu. Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu.”
Có rất nhiều ví dụ về hai loại tài sản này như thức ăn nhiên liệu…là vật tiêu hao. Quần áo, bàn ghế, công cụ lao động…là những vật không tiêu hao. Tiền cũng là vật tiêu hao nhưng tiêu hao không phải do sử dụng mà do được dùng để thanh toán trong lưu thông. Những bất động sản là vật không tiêu hao.Vật tiêu hao có thể biến mất hoàn toàn về mặt vật chất sau lần sử dụng đầu tiên, cũng có những vật tiêu hao không hoàn toàn biến mất nhưng không còn mang tính chất, hình dáng và tính năng ban đầu sau một lần sử dụng mà lại mang tính chất hình dáng, tính năng của một vật khác.
Ví dụ: đĩa CD, băng cassette…
Và có những vật, khi qua một lần sử dụng không mất đi về mặt vật chất và qua nhiều lần sử dụng vẫn giữ được tính chất , hình dáng, tính năng ban đầu nhưng lại giảm giá trị rất nhanh và sẽ được thay thế sau một thời gian ngắn. Ta gọi đó là vật tiêu dùng – loại trung gian giữa vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Ví dụ: bút bi, tập vở, quần áo…
Luật còn qui định vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Có nghĩa là các tài sản có thể cho thuê cho mượn không thể là vật tiêu hao. Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày người ta có loại giao dịch “mượn” tài sản để tiêu dùng hay định đoạt. Ví dụ như mượn tiền hay mượn gạo. Thật ra, loại giao dịch này luật gọi tên là hợp đồng vay tài sản (hợp đồng vay tài sản được qui định tại điều 471 BLDS2005). Khi đó người vay nhận tài sản, sử dụng tự do sau một thời gian phải trả lại cho người cho vay vật cùng loại có giá trị tương đương với vật đã vay trước đó.
* Vật đặc định và vật cùng loại
Điều 179 BLDS 2005 qui định: “Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Vật cùng loại có cùng tính chất có thể thay thế cho nhau. Vật đặc định là vật phân biệt được với vật khác bằng những đặc điểm riêng về kí hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định phải giao đúng vật đó.”
Theo khái niệm của luật thì ta cũng dễ hiểu vật cùng loại và vật đặc định là gì. Tuy nhiên, vật cùng loại chỉ là một khái niệm mang tính tương đối. Bởi vì vật cùng loại có thể trở thành đặc định trong quá trình thực hiện một giao dịch nhưng lại trở thành cùng loại khi là đối tượng của một giao dịch khác.
Ví dụ: Cửa hàng bán lẻ kí hợp đồng mua 6 ti vi màu hiệu LG 24 inch với một đại lí tại Cần Thơ. Ở thời điểm giao kết hợp đồng, 6 cái ti vi trên là vật cùng loại trong 20 ti vi cùng loại nằm trong đại lí. Khi 6 cái ti vi đó được tách ra khỏi đại lí và được giao nó trở thành vật đặc định. Khi nhập vào cửa hàng để bán lẻ, nó lại