Quyền bào chữa là chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự. Theo viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học Liên xô (cũ) M. X. Xtrôgôvích thì “Quyền bào chữa của người bị buộc tội là tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho họ để bảo vệ trước mọi sự buộc tội và được họ sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình”. Đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo2 là một nguyên tắc Hiến định (Điều 132 Hiến pháp 1992), một nguyên tắc rất quan trọng của tố tụng hình sự. Bất kỳ sự vi phạm nào nguyên tắc này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đều có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới những hậu quả xấu không chỉ đối với người bị buộc tội mà còn ảnh hưởng xấu đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng và uy tín của nhà nước nói chung. Với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay khi chúng ta muốn quán triệt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về việc giải quyết vụ án hình sự phải chủ yếu dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì sự tôn trọng nguyên tắc nói trên càng mang tính chất thiết thực hơn bao giờ hết.
17 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2126 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC MỤC
TRANG
A- LỜI MỞ ĐẦU
Quyền bào chữa là chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự. Theo viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học Liên xô (cũ) M. X. Xtrôgôvích thì “Quyền bào chữa của người bị buộc tội là tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho họ để bảo vệ trước mọi sự buộc tội và được họ sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình”. Đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo2 là một nguyên tắc Hiến định (Điều 132 Hiến pháp 1992), một nguyên tắc rất quan trọng của tố tụng hình sự. Bất kỳ sự vi phạm nào nguyên tắc này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đều có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới những hậu quả xấu không chỉ đối với người bị buộc tội mà còn ảnh hưởng xấu đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng và uy tín của nhà nước nói chung. Với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay khi chúng ta muốn quán triệt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về việc giải quyết vụ án hình sự phải chủ yếu dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì sự tôn trọng nguyên tắc nói trên càng mang tính chất thiết thực hơn bao giờ hết.
B – NỘI DUNG
I – LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Khái niệm chung về người bào chữa.
Người bào chữa có thể là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của họ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003, người bào chữa có thể là Luật sư; người đại diện họp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động của Luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
- Bào chữa viên nhân dân: bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, luật sư, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho người bào chữa.
2. Những người không được tham gia bào chữa
Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 những người sau đây không được tham gia bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Người đã tiên hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án đó một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của những người này. Người đã tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong cùng một vụ án và họ không thể đồng thời thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa.
Người thân thích của những người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể sẽ gây ảnh hưởng đến sự khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ.
- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Những người này phải thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực, không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án. Một người có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
II –QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ NGƯỜI BÀO CHỮA
1. Quyền của người bào chữa.
BLTTHS 2003 quy định người bào chữa thma gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81, 82 của BLTTHS thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Theo đó người bào chữa có thể tham gia tố tụng vào một trong ba thời điểm:
- Người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi khởi tố bị can;
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 81 BLTTHS), bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 82 BLTTHS);
- Người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi kết thúc điều tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, theo quyết định của VIện trưởng Viện kiểm sát.
Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bào chữa của họ trong suốt quá trình giải quyết vụ án, cũng như thể hiện mức độ thực hiện quyền bào chữa của các đối tượng theo quy định của pháp luật. Người bào chữa tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Đối với mỗi vụ án cụ thể, việc người bào chữa được tham gia tố tụng vào thời điểm nào ảnh hưởng đến khả năng tham gia tìm hiểu, theo dõi về vụ án đó. Được tham gia tố tụng càng sớm, người bào chữa càng có điều kiện thực hiện các hoạt động mà pháp luật cho phép để tìm ra những chi tiết, chứng cứ có lợi cho thân chủ mình. Mặt khác, các cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện việc bắt, tạm giam, và các hoạt động điều tra khác vẫn có những trường hợp còn thiếu sót làm ảnh hưởng hoặc vi phạm quyền lợi hợp pháp của NBTG, BCBC. Với sự tham gia của người bào chữa ngay từ khi có quyết định tạm giam, những hoạt động này sẽ được giám sát và như vậy quyền lợi của người được bào chữa sẽ được bảo đảm hơn. Quy định về việc người bào chữa có thể tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giam là một bước tiến của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988. Theo quy định của BLTTHS 1988, người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Đây là sự thay đổi mang tính phát triển của BLTTHS 2003, bởi lẽ việc quy định người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp giúp người bào chữa được tham gia tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, từ đo có sự chủ động cần thiết trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội hoặc những tình tiết có lợi cho NBTG, BCBC. Việc tham gia của người bào chữa ngay từ khi có quyết định tạm giữ cũng tránh được sự lạm quyền từ phía CQĐT, bắt giam, tạm giữ không cần thiết, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Có thể nói, quy định này thể hiện sự tiến bộ và dân chủ của pháp luật TTHS Việt Nam.
BLTTHS 2003 dành khoản 2 Điều 58 để quy định về quyền của người bào chữa trong TTHS.
- Thứ nhất, quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi NBTG, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mình bào chữa.
Đây là quy định mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động điều tra. Việc tham gia này của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung có ý nghĩa trợ giúp ban đầu đối với NBTG, BCBC. Sự có mặt của người bào chữa khi lấy lời khai, khi hỏi cung giúp cho NBTG, BCBC được ổn định về mặt tâm lí hơn khi trả lời những câu hỏi của ĐTV. Điều này sẽ giúp hạn chế tình trạng do quá sợ hãi hoặc thiếu hiểu biết, NBTG, BCBC khai không đúng với thực tế vụ án. Sau đó chính những lời khai này có thể trở thành chứng cứ buộc tội đối với NBTG, BCBC. Ngoài ra, với sự am hiểu pháp luật của mình, người bào chữa còn có giúp NBTG, BCBC nhìn ra những điểm sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản lời khai, giúp NBTG, bị can khai lại, giải thích lại đúng với sự thật vụ án. Sự thamg gia của người bào chữa ngay trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung còn bảo đảm cho những hoạt động được tiến hành đầy đủ, tuân thủ pháp luật hơn. Bởi lẽ, với sự có mặt của người bào chữa, những người THTT sẽ thận trọng và làm việc đúng pháp luật hơn. Trên thực tế, đã có những trường hợp khi không có sự tham gia của người bào chữa, ĐTV rất dễ duy ý chí, chủ quan, thậm chí còn có hành vi bức cung, ép cung, mớm cung… để làm cho hồ sơ vụ án theo hướng suy đoán của bản thân. Tình trạng này sẽ được hạn chế phần nào khi trong các hoạt động điều tra người bào chữa cũng có mặt. Tham gia vào các hoạt động điều tra, giúp cho người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, đồng thời nắm rõ các tình tiết, chứng cứ để từ đó đưa ra lời bào chữa thích hợp và hiệu quả cho NBTG, bị can trong những giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Người bào chữa còn có thể hỏi NBTG, BCBC nếu được sự đồng ý của ĐTV. Đây là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật. Trong biên bản hỏi cung không chỉ có những tình tiết mang tính buộc tội, mà những câu hỏi của người bào chữa cũng có thể dẫn đến những luận cứ cho thấy NBTG, BCBC không có tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định người bào chữa chỉ được hỏi NBTG, BCBC nếu được ĐTV đồng ý. Quy định như vậy mặc dù bảo đảm cho trật tự của buổi lấy lời khai, hỏi cung nhưng cũng có thể dẫn đến tình trạng người bào chữa không được thực hiện quyền này, vì quyết định phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người ĐTV. Người bào chữa cũng có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác, ví dụ như: hoạt động đối chất, nhận dạng; hoạt động khám nghiệm, thực nghiệm hiện trường; khám xét, thu giữ tài sản…
Khi tham gia các hoạt động điều tra, người bào chữa được quyền xem xét các biên bản về các hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan tới người mà mình bào chữa. khi xem xét, người bào chữa có thể đối chiếu biên bản có phù hợp với quá trình tiến hành hoạt động điều tra hay không. Nếu nhận thấy hành vi tố tụng của ĐTV không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc biên bản có những yếu tố vi phạm pháp luật, người bào chữa có thể khiếu nại cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Như vậy, có thể thấy, sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung và sự có mặt của người bào chữa trong các hoạt động điều tra khác góp phần nâng cao chất lượng điều tra, xét xử, đặc biệt công bằng, dân chủ trong pháp luật TTHS Việt Nam. BLTTHS 2003 quy định cho người bào chữa quyền này là hoàn toàn hợp lí.
- Thứ hai, quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.
Quy định của pháp luật về quyền của người bào chữa được có mặt trong khi hỏi cung BCBC sẽ không có ý nghĩa nếu nó không được thực hiện trên thực tế. Điều này thể hiện ở chỗ, mặc dù pháp luật quy định người bào chữa có quyền này, nhưng địa điểm hỏi cung, thời gian hỏi cung lại thuộc quyền hạn, trách nhiệm của CQĐT. Người bào chữa vốn chỉ được mời, hoặc cử sau khi NBTG, BCBC đã bị bắt, bị tam giam hoặc bị khởi tố. Do đó, họ không thể tự mình nắm rõ những thông tin về đị điểm và thời gian hỏi cung bị can để có sự chủ động cần thiết. Đây là thông tin mà người bào chữa cần được cung cấp từ phía CQĐT, giúp họ có thể kịp thời chuẩn bị và sắp xếp để thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật TTHS. BLTTHS 2003 đã khắc phục thiếu sót của BLTTHS 1988 khi quy định them quyền được đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và thời điềm hỏi cung bị can của người bào chữa. Đây cũng là điểm mới tiến bộ và hợp lí của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988.
- Thứ ba, quyền đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS 2003.
Với mục đích bảo đảm sự công bằng khách quan của quá trình giải quyết vụ án, BLTTHS 2003 quy định những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người THTT, hoặc người tham gia tố tụng khác nếu có dấu hiệu cho thấy họ có thể không vô tư khách quan. Một trong những chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người THTT và người tham gia tố tụng khác là người bào chữa. Người bào chữa nếu xét thấy việc tham gia của người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch có thể không khách quan vô tư ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình có thể dựa vào những căn cứ luật định để đề nghị thay đổi những người này.
Đối với người tiến hành tiến tụng, những căn cứ này được quy định tại Điều 42 BLTTHS năm 2003. Theo đó người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu:
- Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp là người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo.
- Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Đối với người giám định họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 60 BLTTHS năm 2003. Thuộc một trong những trường hợp được quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42 BLTTHS năm 2003 đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, phó viện trưởng VKS, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chán án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa người làm chứng người phiên dịch trong vụ án đó. Ngoài ra, nếu người giám định không đủ khả năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu giám định họ cũng có thể bị thay đổi. Đây cũng là những căn cứ tương tự để thay đổi người phiên dịch quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 2003
- Thứ tư, quyền thu thập tài liệu đồ vật tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị giam giữ, bị can bị cáo người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan tổ chức cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nướ, bí mật công tác.
Khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho NBTG, BCBC người bào chữa phải căn cứ vào vào các chứng cứ các tình tiết có liên quan vụ án, các tài liệu thu thập được từ phía các cơ quan điều tra. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra thu thập được người bào chữa sẽ không nắm bắt được những tình tiết có lợi cho NBTG, BCBC hoặc sẽ có cái nhìn về vụ án theo hướng kết luận của cơ quan điều tra. Vì vậy, pháp luật cho phép người bào chữa được tự mình thu thập tài liệu đồ vật tình tiết liên quan đến việc bào chữa, nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Điều này sẽ tạo điều kiện cho người bào chữa tiếp xúc với vụ án với mức độ khái quát hơn vừa có thể chuyên môn sâu hơn.
Với quy định trên người bào chữa được thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa một cách hợp pháp. Sau đó người bào chữa sử dụng những gì thu thập được để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho NBTG, BCBC hiệu quả hơn. Cơ quan điều tra, VKS, TA xem xét những đồ vật tài liệu này nếu nó đảm bảo tính khách quan và hợp lý thì có thể sử dụng như là chứng cứ để giải quyết vụ án.
- Thứ năm, quyền đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu.
Những tài liệu đồ vật này thường là theo hướng có lợi cho NBTG, BCBC. Người bào chữa có thể đưa ra thêm những yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau như: yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hay giám định lại nếu có căn cứ cho rằng kết quả giám định trước đó không đúng sự thật, hoãn phiên tòa…. Người bào chữa phải xem xét tính hợp lý và quan trọng là đối với việc bào chữa cho NBTG, BCBC để đưa ra những tài liệu đồ vật yêu cầu. CQTHTT phải tôn trọng quyền được đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu của người bào chữa. Sự đảm bảo này được luật hóa tại Điều 122 BLTT năm 2003: “Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXV của Bộ luật này”.
- Thứ sáu, quyền gặp người bị tạm giữ, BCBC đang bị tạm giam.
Trao cho người bào chữa có quyền này là rất cần thiết. Bởi lẽ, hơn ai hết chính NBTG, BCBC là những người nắm rõ sự thật vụ án. Người bào chữa muốn thực hiện tốt chức năng của mình cần phải tiếp xúc trực tiếp với người bị tạm giam, BCBC chứ không chỉ tìm hiểu chủ thể vụ án quachứng cứ, tài liệu được cơ quan điều tra cung cấp.. Việc gặp gỡ trao đổi với NBTG, BCBC giúp cho người bào chữa biết rõ tình tiết vụ án, các đặc điểm nhân thân, cũng như diễn biến tâm lý của người được bào chữa và tâm tư nguyện vọng của họ. Người bào chữa tìm hiểu được nguyên nhân động cơ điều kiện hoàn cảnh phạm tội nếu NBTG, BCBC thực sự có tội. Từ những thông tin này người bào chữa có thể xác minh lại chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra. Hoặc tìm ra những tình tiết gỡ tội cho NBTG, BCBC. Ngoài ra khi gặp người bào chữa NBTG, BCBC thường cảm thấy tin tưởng hơn nên dễ dàng cung cấp sự thật vụ án. Với sự tin tưởng đó người bào chữa có thể động viên để NBTG, BCBC khai báo thành khẩn với cơ quan điều tra từ đó được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Việc gặp gỡ NBTG, BCBC không chỉ tạo điều kiện cho người bào chữa để tìm ra phướng hướng bào chữa phù hợp mà họ có thể giải thích rõ những vấn đề pháp luật cho NBTG, BCBC như quyền của NBTG, BCBC; quyền nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng… qua đó người bào chữa có thể phát hiện những sai phạm nếu có trong quá trình giải quyết vụ án của CQTHTT. Mặt khác, được hiểu rõ quyền của mình khi tham gia tố tụng là một những điều kiện đảm bảo quyền bào chữa của NBTG, BCBC.
- Thứ bảy, quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên qua đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật.
Qua việc đọc ghi chép và sao chuo những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa người bào chữa nắm được nội dung của vụ án biết chính xác người được bào chữa buộc tội gì và dựa trên những luận cứ buộc tội nào. Từ đó, người bào chữa có sự chuẩn bị xác đáng để tìm ra những điểm gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người được bào chữa. Thông qua việc thực hiện quyền này người bào chữa được chủ động chuẩn bị cho việc bào chữa và tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Ngoài ra, đọc hồ sơ vụ án còn giúp người bào chữa có điều kiện phát hiện những sai lầm thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra. Trên cơ sở đó người bào chữa kết hợp thực hiện các quyền khác như quyền yêu cầu, quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền.
- Thứ tám, quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa.
Vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa xét xử. Phiên tòa là nơi kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ các tình tiết vụ án và ra phán quyết đối với bị cáo. Tại phiên tòa, VKS, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra những chứng cứ luận điểm có liên quan đến vụ án và tranh luận; Hội đồng xét xử có trách nhiệm xem xét các chứng cứ xét hỏi và điều khiển việc tranh luận giữa các bên. Lúc này việc bào chữa có hiệu quả hay không có được thể hiện tại phiên tòa xét xử. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và người khác về những vấn đề của những vụ án để có những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Để thực hiện được quyền này người bào chữa phải có sự chuẩn bị chu đáo từ việc nghiên cứu hồ sơ trước đó. Tại phiên tòa cùng với sự chuẩn bị những luận điểm chứng cứ theo hướng có lợi cho bị cáo người bào chữa phải tập trung phân tích những ý kiến