Như chúng ta đã biết equity ra đời và phát triển ở Anh từ thế kỉ XV, nó “sinh sau đẻ muộn” hơn common law gần hai thế kỉ (common law ra đời từ thế kỉ XIII), tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay thì cả common law và equity đều thể hiện được vai trò và có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
4 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4702 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh Equity Law và Common Law, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Như chúng ta đã biết equity ra đời và phát triển ở Anh từ thế kỉ XV, nó “sinh sau đẻ muộn” hơn common law gần hai thế kỉ (common law ra đời từ thế kỉ XIII), tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay thì cả common law và equity đều thể hiện được vai trò và có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
Vai trò và đóng góp của common law với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
Có thể nói rằng common law chính là cái nền mà dựa vào đó hệ thống pháp luật của Anh đã hình thành và phát triển, common law đã thống nhất cả hệ thống pháp luật của Anh. Trước thế kỷ XIII, khi common law chưa ra đời, ở Anh chưa có pháp luật chung trên toàn quốc. Ban đầu các thẩm phán từ tòa án Hoàng gia đi giải quyết các tranh chấp ở địa phương dựa vào nhận thức của họ đối với tập quán của địa phương. Sau mỗi vụ việc xét xử như vậy thì các thẩm phán Hoàng gia lại quay trở về Westminster thảo luận sau đó ghi chép, gọt giũa và sắp xếp lại một cách có hệ thống các tập quán mà họ cho là thích hợp áp dụng rộng rãi, đưa chúng lên thành tập quán của toàn lãnh thổ. Sau này trên cơ sở áp dụng nguyên tắc tiền lệ pháp thì common law ra đời và trở thành pháp luật chung được áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ vương quốc Anh.
Trên thực tế common law được tạo ra không phải bởi các văn bản pháp luật mà bằng việc tòa án sử dụng các quyết định đã được đưa ra trước đó như những tiền lệ. Điều này đã giúp cho hệ thống án lệ ở Anh phát triển đến nỗi việc chú ý đến luật thành văn vào thời kỳ đó hầu như là không cần thiết. Cụ thể là tính đến năm 1980 thì ở Anh đã có 350.000 án lệ được công bố, một số lượng áp đảo hoàn toàn so với khoảng 3.000 đạo luật do nghị viện ban hành. Khi có một số lượng án lệ đồ sộ như thế này thì với mỗi một vụ việc cần giải quyết ở hiện tại người ta đều có thể tìm ra một hay một vài phán quyết trước đây có những tình tiết tương tự để áp dụng giải quyết vụ việc hiện tại này. Điều này đóng một vai trò quan trọng trong một hệ thống pháp luật mà những thẩm phán có xu hướng hoài nghi các qui định của pháp luật thành văn nhưng lại rất tin tưởng vào các án lệ.
Vai trò và những đóng góp của equity với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Anh.
Đến thế kỉ XV, khi mà common law đã không còn giữ được sự mềm dẻo và linh hoạt như khi nó vừa xuất hiện thì equity ra đời nhằm khắc phục những nhược điểm của common law và là để sửa đổi bổ sung cho common law chứ không nhằm thay thế common law. Các pháp quan khi mà khai thác equity thì không dựa vào án lệ của common law để giải quyết vụ án, mà cơ sở để pháp quan đưa ra phán quyết của mình là dựa trên lẽ phải và sự công bằng. Do đó, bất cứ một vụ việc nào cũng có thể giải quyết được. Mặc dù lẽ phải và sự công bằng để giải quyết vụ việc đó phụ thuộc rất lớn vào ý chí chủ quan của các pháp quan, nhưng nó vẫn là ưu điểm hơn so với common law, và nó đã bổ sung vào lỗ hổng của common law giúp hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của Anh.
Tuy nhiên đóng góp lớn nhất của equity đối với hệ thống pháp luật Anh là đã tạo ra chế định ủy thác. Trong giai đoạn từ thế kỉ XII – XIII ở nước Anh, khi mà những người sử dụng đất không đủ khả năng (những người nô lệ mà trong tay có một chút ít đất đai) hoặc không có điều kiện (những người phải tham gia vào các cuộc viễn chinh kéo dài) để trực tiếp quản lý và sử dụng đất đai của mình thì họ thường tìm người thay mặt mình quản lý phần đất đai đó bằng cách sang tên mảnh đất của mình cho người được ủy thác kèm theo một số điều kiện nhất định như: Phần đất sẽ được trả lại cho người ủy thác khi mà anh ta yêu cầu hoặc trả lại cho con cái của anh ta khi mà chúng đã đến tuổi trưởng thành; trong quá trình bên được ủy thác sử dụng đất thì phải trích lại một phần hoa lợi cho bên ủy thác... Nhưng một số người không may đã không được người được ủy thác trả lại số đất đai trên khi mà họ có yêu cầu bởi vì theo common law, sau khi sang tên thì phần đất đó đã thuộc về quyền sử dụng hợp pháp của người được ủy thác, quyền sử dụng đất của người được ủy thác chỉ bị giới hạn bởi quy phạm đạo đức chứ không bị giới hạn bởi quy phạm pháp luật. Đến lúc này những người ủy thác không may mắn đó đã kiện lên nhà vua và đại pháp quan – theo yêu cầu của nhà vua đã giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề này dựa trên nguyên tắc “lẽ phải, lương tâm” đồng thời hoàn thiện các nguyên tắc, xây dựng những quy phạm pháp luật chi tiết liên quan đến vấn đề này. Tập hợp các quy phạm pháp luật đó đã tạo thành chế định ủy thác – một chế định được coi là chế định pháp luật điển hình hệ thống pháp luật Anh.
Kết luận
Từ sau cuộc cải tổ pháp luật ở Anh vào thế kỉ XIX đến nay thì người ta đã hợp nhất common law và equity, theo đó tất cả các tòa án chuyên trách trong tòa án cấp cao và tòa phúc thẩm đều phải áp dụng các quy phạm và nguyên tắc pháp lý của hệ thống pháp luật Anh – bất kể nó được hình thành từ common law hay từ equity. Điều này giúp cho equity và common law dễ dàng bổ khuyết cho nhau nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật của Anh.
Danh sách tài liệu tham khảo
Trường đại học Luật Hà Nội – Giáo trình luật so sánh (NXB Công an nhân dân – Hà Nội/2008).
Michael Bodgan – Luật so sánh (Người dịch: PGS.TS Lê Hồng Hạnh; Th.S Dương Thị Hiền).
Réne David – Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại (Người dịch: Nguyễn Sỹ Dũng, Nguyễn Đức Lam. NXB TP. Hồ Chí Minh – 2003).