Toàn cầu hóa nền kinh tế là quá trình phổ biến theo hướng nhất thể hóa trên phạm vi
toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động những mô hình cấu trúc trong lĩnh vực
kinh tế và khoa học kĩ thuật. Chính vì th ế việc phát triển quan hệ thương mại quốc tế là rất
quan trọng đối với bất kì quốc gia nào. Trong đó các nước đang phát triển tham gia với
động lực là mở rộng thị trường xuất khẩu tạo mối liên kết giữa các quốc gia, khu vực với
nhiều hình thức phong phú và hiệu quả. Và cho đến nay một số quốc gia đang phát triển
đã có tiến bộ vượt bậc như: Ở Đông Nam Á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuy ển
mạnh sang hướng xuất khẩu và có thành quả tốt. Tận dụng những lợi thế của mình về lao
động và nguồn tài nguyên phong phú, việc tham gia thương mại quốc tế giúp cho các nước
đang phát triển có nhiều cơ hội việc làm, nâng cao mức sống dân cư và còn có cơ hội hội
nhập vào thị trường tài chính toàn cầu. Để phân tích những lợi thế này nhóm em xin đưa ra
đề tài nguyên cứu: ‘‘So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế
trong thương mại quốc tế. Theo các dấu hiệu lợi thế, hãy phân tích nội dung quan hệ
thương mại của các nước đang phát triển với các nước phát triển. Bình luận về hiệu
ứng (trước mắt và lâu dài) của mối quan hệ thương mại này đối với các nước đang phát
triển’’ nhằm có cái nhìn đúng đắn về mối quan hệ này từ đó có thể đưa ra các giải pháp
phù hợp để phát triển thương mại quốc tế tại các nước đang phát triển.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4374 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế trong thương mại quốc tế. Theo các dấu hiệu lợi thế, hãy phân tích nội dung quan hệ thương mại của các nước đang phát triển với các nước phát triển. Bình luận về hiệu ứng (trước mắt và l, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BÀI TẬP NHÓM
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế trong thương mại
quốc tế. Theo các dấu hiệu lợi thế, hãy phân tích nội dung quan hệ thương mại của
các nước đang phát triển với các nước phát triển. Bình luận về hiệu ứng (trước
mắt và lâu dài) của mối quan hệ thương mại này đối với các nước đang phát triển
HÀ NỘI, THÁNG 06- 2013
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa nền kinh tế là quá trình phổ biến theo hướng nhất thể hóa trên phạm vi
toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động những mô hình cấu trúc trong lĩnh vực
kinh tế và khoa học kĩ thuật. Chính vì thế việc phát triển quan hệ thương mại quốc tế là rất
quan trọng đối với bất kì quốc gia nào. Trong đó các nước đang phát triển tham gia với
động lực là mở rộng thị trường xuất khẩu tạo mối liên kết giữa các quốc gia, khu vực với
nhiều hình thức phong phú và hiệu quả. Và cho đến nay một số quốc gia đang phát triển
đã có tiến bộ vượt bậc như: Ở Đông Nam Á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển
mạnh sang hướng xuất khẩu và có thành quả tốt. Tận dụng những lợi thế của mình về lao
động và nguồn tài nguyên phong phú, việc tham gia thương mại quốc tế giúp cho các nước
đang phát triển có nhiều cơ hội việc làm, nâng cao mức sống dân cư và còn có cơ hội hội
nhập vào thị trường tài chính toàn cầu. Để phân tích những lợi thế này nhóm em xin đưa ra
đề tài nguyên cứu: ‘‘So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế
trong thương mại quốc tế. Theo các dấu hiệu lợi thế, hãy phân tích nội dung quan hệ
thương mại của các nước đang phát triển với các nước phát triển. Bình luận về hiệu
ứng (trước mắt và lâu dài) của mối quan hệ thương mại này đối với các nước đang phát
triển’’ nhằm có cái nhìn đúng đắn về mối quan hệ này từ đó có thể đưa ra các giải pháp
phù hợp để phát triển thương mại quốc tế tại các nước đang phát triển.
1. So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế trong thương mại
quốc tế
1.1 Các khái niệm lợi thế
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế khi mỗi quốc
gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản
xuất thấp hơn hẳn so với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế
thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi. Nếu một quốc gia không thu được gì, hoặc bị lỗ, họ
sẽ từ chối thương mại.
Thương mại giữa hai quốc gia được dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối. Khi một quốc gia
sản xuất một hàng hóa có hiệu quả hơn so với quốc gia khác nhưng kém hiệu quả hơn
trong sản xuất hàng hóa thứ hai, haiquốc gia có thể thu được lợi ích bằng cách mỗi quốc
gia chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có lợi thế tuyệt đối, nhập khẩu hàng
hóa không có lợi thế. Thông qua quá trình này, các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu
quả nhất và sản lượng của cả hai hàng hóa đều tăng. Sự tăng lên về sản lượng của haihàng
hóa này do lượng thặng dư từ chuyên môn hóa trong sản xuất được phân bố lại giữa hai
quốc gia thông qua thương mại.
Theo khía cạnh này, một quốc gia cũng tương tự như một cá nhân, không nên cố gắng
sản xuất tất cả hànghóa cho mình, mà nên tập trung sản xuất hàng hóa mình có sở trường
nhất, đem trao đổi một phần sản phẩm đó lấy sản phẩm khác cần dùng, theo cách này tổng
sản lượng của các cá nhân cộng lại sẽ tăng, phúc lợi của mỗi các nhân cũng tăng.
Lý thuyết lợi thế so sánh
Lợi thế so sánh hay Ưu thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng
mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa
mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các
nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà
mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các
nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương
mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác
trong việc sản xuất mọi hàng hóa.
Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc
tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có
những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của
mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một
cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."
Lý thuyết lợi thế nguồn lực
Lý thuyết lợi thế nguồn lực cho rằng các nước có nhiều vốn sẽ có lợi thế về chi phí về
giá cả trong sản xuất hàng hóa công nghiệp những hàng hóa cần nhiều vốn hơn lao động.
Họ có lợi nhuận trong việc chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nhiều vốn
để đổi lại nhập khẩu những mặt hàng có hàm lượng lao động từ những nước dồi dào về lao
động. Lý thuyết về lợi thế nguồn lực:
- Những sản phẩm khác nhau đòi hỏi các yếu tố sản xuất khác nhau. Ví dụ, sản phẩm
nông nghiệp đòi hỏi nhiều lao động trên một đơn vị tư bản hơn so với sản phẩm công
nghiệp, những sản phẩm đòi hỏi nhiều vốn hơn so với với 1 đơn vị lao động hơn phần lớn
những sản phẩm thô. Tỷ lê các yếu tố sản xuất những hàng hóa khác nhau sẽ phụ thuộc
vào tương quan giá cả của chúng
- Các nước có mức độ sẵn có về các yếu tố nguồn lực khác nhau. Nhìn chung, các
nước phát triển dồi dào về nguồn vốn trong khi phần lớn các nước đang phát triển tương
đối dồi dào nguồn lao động
1.2 So sánh sự khác nhau trong nội dụng của các khái niệm lợi thế trong thương mại
quốc tế
1.2.1. Giống nhau
- Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại tự do,
không có sự can thiệp của chính phủ.
- Các quốc gia đều nhận được lợi ích từ việc tham gia thương mại quốc tế.
- Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa
- Không có chi phí vận chuyển về hàng hóa
- Những hàng hóa trao đổi giống hệt nhau
- Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo.
- Không có thuế quan và rào cản thương mại
- Thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết nơi có hàng hoá rẻ
nhất trên thị trường quốc tế.
1.2.2. Khác nhau
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Sử dụng yếu tố chi phí sản xuất trong quá trình tạo ra một sản phẩm để so sánh lợi thế
giữa các quốc gia trong quá trình tham gia thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia tập trung
chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp
hơn hẳn so với các quốc gia khác. Xét theo chi phí sản xuất thì trong ví dụ dưới đây, Việt
Nam sản xuất thép và quần áo đều có chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng
Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga.
Sản phẩm Chi phí sản xuất (ngày công theo lao động)
Việt Nam Nga
Thép (1 đơn vị) 25 16
Quần áo (1 đơn vị) 5 4
Lý thuyết lợi thế so sánh
Sử dụng yếu tố chi phí cơ hội trong quá trình tạo ra một sản phẩm để so sánh lợi thế
giữa các quốc gia trong quá trình tham gia thương mại quốc tế. Xét ví dụ ở trên ta thấy, để
sản xuất 1 đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị.
Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp hơn ở Nga, để sản xuất ra 1
đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/ 4 đơn vị. Điều này
chỉ ra rằng Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang
Việt Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga.
Lý thuyết lợi thế nguồn lực
Trong các lý thuyết về lợi thế so sánh mới chỉ đề cập đến những nguồn lực cụ thể như:
vốn, hao phí lao động, nguyên vật liệu... tức là những nguồn lực cụ thể có hình hài, cân
đong đo đếm được, tính được hệ số so sánh mà ta gọi đó là nguồn lực hữu hình. Bên cạnh
đó còn có nguồn lực vô hình, khó đo đếm (vị trí địa lý, tiềm năng du lịch, nguồn nhân lực
trí tuệ) cần được đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng để có biện pháp khai thác. Lý
thuyết lợi thế nguồn lực phân tích sâu về nguyên nhân vì sao giữa các nước lại có chi phí
so sánh khác nhau. Đó chính là do sự khác nhau về mức độ sử dụng yếu tố để sản xuất sản
phẩm sẽ quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh. Trong ví dụ ở trên, Việt Nam là nước
tương đối sẵn về lao động sẽ sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may là mặt hàng cần nhiều
lao động. Còn Nga là nước tương đối sẵn có về vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mặt
hàng cần nhiều vốn.
2. Phân tích nội dung thương mại quốc tế của các nước đang phát triển đối với các
nước phát triển theo các dấu hiệu lợi thế
Từ việc phân tích mối quan hệ thương mại qua các dấu hiệu lợi thế dẫn đến nội dung
hoạt động xuất nhập khẩu ở dưới
2.1 Hoạt động xuất khẩu
Theo Các lý thuyết lợi thế ở trên thì bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế
thì phải biết được thế mạnh cũng như lợi thế lớn nhất của mình để từ đó tập trung các
nguồn lực vào khai thác, sử dụng và phát huy hơn nữa các lợi thế đó .Có như vậy mới có
thể đem về lợi ích tối đa cho đất nước.Điều này lại càng quan trọng với những nước đang
phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều là những nước có một khu vực nông
nghiệp rất lớn; nông nghiệp vẫn luôn chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân, lực
lượng lao động dồi dào nhưng trình độ dân trí, tay nghề thấp, tiềm lực về vốn lại không có
nên chưa thể đủ khả năng để phát triển sản xuất những ngành công nghiệp nặng, những
ngành có hàm lượng chất xám cao. Từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế, lao động,…cho thấy lợi
thế lớn nhất của các nước đang phát triển chính là trong sản xuất nông nghiệp và sản xuất
các mặt hàng sử dụng nhiều lao động . Do đó:
Vận dụng lý thuyết lợi thế tuyệt đối: Ngay giai đoạn đầu tiên, các nước đang phát
triển (ĐPT) đã chủ yếu tập trung vào sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nông sản,
những mặt hàng thô chưa qua sơ chế và sau này là những mặt hàng công nghiệp nhẹ sản
xuất hàng tiêu dùng như dệt may, giầy dép,… những mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
Trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh các nước ĐPT cũng xác định: khi tham gia thương
mại quốc tế bên cạnh việc chú trọng xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh là nông sản và
hàng tiêu dùng cũngcần chủ trọng xuất khẩu những mặt hàng khác ít bất lợi nhất như: như
các mặt hàng thuộc các ngành ngược như gia công chế tạo.
Tiếp đó, các nước ĐPT cần tích cực và chủ trương thu hút vốn, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài để thay thế mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ
trọng những mặt hàng có hàm lượng chất xám cao để tăng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời
giảm các mặt hàng là nguyên liệu thô chưa qua sơ chế để sử dụng một cách có hiệu quả
hơn các nguồn lực để phát triển kinh tế một cách bền vững ( vận dụng lý thuyết lợi thế
nguồn lực).
Để phát huy hiệu quả của các lợi thế, các nước ĐPT đã tích cực mở cửa thương mại,
tham gia hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hơn thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng
có lợi thế sang các nước phát triển.
Từ năm 1970 đến năm 2005. Thương mại tăng trưởng đặc biệt nhanh tại các nước
đang phát triển: Ở các nước thu nhập trung bình và thấp, xuất khẩu tính theo tỷ lệ phần
trăm GDP gần như tăng gấp ba; Ở các nước Đông và Đông nam Á :xuất khẩu tăng từ 7
phần trăm GDP vào năm 1970 lên 38 phần trăm vào năm 2005.
Xuất khẩu cũng gia tăng đáng kể ở các nước ĐPT tại châu Mỹ Latinh và Nam Á.
Nhưng ở Trung Đông, Bắc Phi và phần lớn châu Phi cận Sahara ít có thay đổi hơn. Các
sản phẩm xuất khẩu chính vẫn là dầu hoả , các sản phẩm dầu khác, đồng, vàng, các
nguyên vật liệu thô, khoáng sản, và hàng nông sản như ca cao và cà phê; nhưng không có
hàng công nghiệp chế tạo. Năm 1970, xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các
nước Trung Đông và Bắc Phi (37 phần trăm), và châu Phi cận Sahara (22 phần trăm) lớn
hơn nhiều so với các khu vực chính khác, nhưng đến năm 2002, tỷ số giữa xuất khẩu trên
GDP không thay đổi lắm.Nhiều nước ĐPT đã trở thành những nước dẫn đầu về xuất khẩu
một số các mặt hàng nông sản như Thái Lan dẫn đầu về xuất khẩu gạo, Brazil dẫn đầu về
xuất khẩu chuối, các nước Trung Đông dẫn đầu về xuất khẩu dầu mỏ,….
Cùng với thời gian, người lao động ngày càng tiếp thu được các kỹ năng mới và gia
tăng năng suất, thành phần hàng xuất khẩu ở các nước ĐPT cũng thay đổi, giảm dần hàng
hoá sơ khai (nông nghiệp, khoáng sản, và nguyên liệu thô) đồng thời tăng dần hàng công
nghiệp chế tạo ( hàng dệt may, da giầy, quần áo, linh kiện điện tử, vi tính..). Bảng 1 trình
bày sự thay đổi thành phần hàng xuất khẩu của 17 nước đang phát triển.Năm 1970, hàng
sơ khai xuất khẩu của Mauritius chủ yếu là mía; hàng công nghiệp chế tạo chỉ chiếm 2
phần trăm kim ngạch xuất khẩu. Nhưng đến năm 2005, ba phần tư kim ngạch xuất khẩu là
từ hàng công nghiệp chế tạo, khi Mauritius trở thành nước xuất khẩu chính các mặt hàng
dệt sợi và may mặc. Sri Lanka cũng trải qua diễn tiến thay đổi gần giống hệt như vậy, và
có sự thay đổi lớn tại một số nước khác. Nhưng ở những nước có tăng trưởng kinh tế và
xuất khẩu trì trệ, như Argentina, Honduras, và Senegal, xuất khẩu hàng công nghiệp chế
tạo vẫn chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng số.
Bảng 1: Sự thay đổi trong thành phần hàng xuất khẩu của một số nước ĐPT
Tỷ phần trong tổng kim ngạch xuất khẩu
Quốc gia 1970 2005
Mặt hàng sơ
khai
Mặt hàng công
nghiệp chế tạo
Mặt hàng sơ
khai
Mặt hàng công
nghiệp chế tạo
Algeria 93 7 48 52
Argentina 86 14 87 13
Honduras 92 8 98 2
Ấn Độ 48 52 23 77
Indonesia 99 1 19 82
Hàn Quốc 23 77 7 93
Malaysia 93 7 23 77
Mauritius 98 2 25 75
Mexico 68 32 73 27
Pakistan 43 57 10 90
Peru 99 1 48 52
Senegal 81 19 78 22
Singapore 72 28 15 85
Sri Lanka 99 1 26 74
Thái Lan 95 5 15 85
Tunisia 81 19 19 81
Venezuela 99 1 66 34
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Các chỉ báo phát triển thế giới 2005 (Washington D.C.:
Ngân hàng Thế giới, 2005).
Về thị trường xuất khẩu, đối với hầu hết các nước ĐPT, hoạt động xuất khẩu sang các
nước phát triển vẫn là chủ yếu. Tuy nhiên trong những năm gần đây xu hướng này đã có
những thay đổi đặc biệt là ở châu Á .Gần một nửa hàng xuất khẩu của châu Á ngày nay là
xuất sang các nước châu Á khác so với chỉ khoảng một phần tư vào năm 1980. Nguyên vật
liệu thô và hàng hoá trung gian sản xuất tại một nước châu Á ngày nay có thể được xuất
sang một nước láng giềng để làm ra thành phẩm sau cùng rồi xuất đi nước khác. Hơn nữa,
khi thu nhập ở châu Á tăng mạnh, các nước này trở thành điểm đến sau cùng cho nhiều
nguyên vật liệu thô và hàng hoá tiêu dùng. Một tỷ trọng lớn xuất khẩu khí gas tự nhiên của
Indonesia được xuất sang Hàn Quốc và các nước khác trong khu vực. Sự vươn lên thật ấn
tượng của Trung Quốc đặc biệt đáng kể: Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng nhanh như xuất
khẩu, và đất nước này hiện là một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới. Tỷ trọng
đáng kể hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu của Trung Quốc được lắp ráp từ các linh kiện
nhập từ các nước khác trong các khu vực. Các mặt hàng lương thực thực phẩm từ
Philippines hiện được bán ở Trung Quốc nhiều hơn là xuất sang Hoa Kỳ
2.2 Hoạt động nhập khẩu
Tận dụng các lợi thế của các mình về vốn, nước đang phát triển nhập khẩu những mặt
hàng có hàm lượng vốn cao. Nhóm hàng chủ yếu nhập khẩu chủ yếu là nhóm hàng có tính
chất công nghệ cao như: nhóm hàng máy móc, thiết bị, linh kiện điện tử. Số lượng nhập
khẩu các mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn. Và nhóm hàng này đang có xu hướng tăng lên do
nhu cầu thúc đẩy xuất khẩu cũng nhu nhu cầu sản xuất kinh doanh tại các nước này đang
tăng lên. Tại các nước này tình trạng nhập siêu cao cho thấy khả năng cạnh tranh không cao
của các hàng hóa thay thế nhập khẩu. Nhưng bên cạnh đó tình trạng nhập siêu còn có thể coi
là điều kiện để cải thiện nhập siêu trong chu kì kinh doanh tiếp theo khi máy móc thiết bị
nhập về để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Tại các nước này, nhập khẩu chưa bền vững
do vẫn chú trọng nhập khẩu công nghệ trung gian, chưa có biện pháp dài hạn để kiềm chế
nhập siêu cũng như chưa có những chính sách khuyến khích xuất khẩu đúng mực. Nhập
khẩu chưa quản lý tốt tại các nước đang phát triển đã góp phần làm tăng nguy cơ ô nhiễm và
suy thoái môi trường , tình trạng nhập khẩu hàng hóa không được đảm bảo các quy định an
toàn và môi trường còn khá là phổ biến tại các quốc gia này. Việc nhập khẩu các thiết bị lạc
hậu, thực phẩm kém chất lượng, hóa chất độc hại chưa được ngăn chặn. Quản lý nhập khẩu
chưa tốt làm nảy sinh hiện tượng gian lận thương mại, một số nhóm người thu lợi bất chính
từ hoạt động nhập khẩu, làm trầm trọng hơn sự bất ổn định về kinh tế xã hội
Hiện nay để cải thiện cán cân thanh toán của mình, các nước đang phát triển đang lỗ lực
trong chiến lược hạn chế các mặt hàng nhập khẩu, khuyến khích nhập khẩu những mặt hàng
xa xỉ. Đã có những chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp
thay thế. Các mặt hàng này thường là các mặt hàng tiêu dùng công nghiệp bằng các nguồn
cung cấp và sản xuất trong nước. Để hạn chế nhập khẩu, các nước đang phát triển thực hiện
các hàng rào thuế quan hoạch hạn ngạch đối với các mặt hàng đó, sau đó cố gắng xây dựng
nền công nghiệp trong nước về sản phẩm đó.
3. Bình luận về hiệu ứng của mối quan hệ thương mại của các nước đang phát triển
với các nước phát triển
3.1 Hiệu ứng trước mắt
Cái được
Quan hệ thương mại với các nước phát triển đem lại cho các nước đang phát triển nhiều
tác động tích cực như: Tăng thu nhập quốc dân, Thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội…
Tăng thu nhập quốc dân
Một trong những biện pháp mà các chính phủ các nước đang phát triển hay sử dụng để
tăng thu nhập quốc dân là tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ thương mại
với các nước tìm kiếm thị trường trong xuất nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá. Quan hệ
thương mại với các nước phát triển sẽ giúp các nước đang phát triển dễ dàng hơn trong việc
thực hiện mục tiêu gia tăng tăng thu nhập quốc dân. Các nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) cho thấy các biện pháp hạn chế thương mại của các quốc gia đang phát triển cao
gấp bốn lần so với của các nước có thu nhập cao. Như vậy, các nước phát triển muốn gia
tăng thu nhập cần thiết phải việc tham gia các quan hệ thương mại và bỏ bớt các rào cản.
Theo Ngân hàng Thế giới, các quốc gia đang phát triển sẽ được hưởng lợi khoảng một
nửa trong tổng số tất cả các lợi ích kinh tế từ tự do hóa thương mại hàng hóa. Thu nhập
hàng năm của các nước đang phát triển dự kiến đến năm 2015 sẽ tăng thêm 142 tỷ đô-la,
tương đương 49% lợi ích toàn cầu. Nếu tính cả những phát triển đầy năng động của các nền
kinh tế thì mức tăng đó sẽ lên tới 259 tỷ đô-la, tương đương 56% lợi ích toàn cầu. Ngân
hàng Thế giới cũng cho biết, đối với các quốc gia đang phát triển đã giảm bớt rào cản
thương mại, mức thu nhập bình quân đầu người thực tế đã tăng nhanh xấp xỉ ba lần
(5%/năm) trong khi các quốc gia đang phát triển khác chỉ đạt 1,4%.
Các nước phát triển chính là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm của các nước
đang phát triển. Do dó, phát triển quan hệ thương mại với các nước phát triển sẽ đem lại
thêm một nguồn thu nhập từ xuất khẩu cho các nước đang phát triển. Hơn nữa, khi tham gia
vào quan hệ thương mại với các nước phát triển, các nước đang phát triển có thể thu hút
thêm được vốn đầu tư và nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ các nước phát triển có
công nghệ tiên tiến để từ đó phát triển công nghệ kỹ thuật của nước mình, tăng năng suất
lao động, đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Thu nhập quốc dân phản ánh một cách
khái quát nhất quy mô sản lượng hàng hoá và dịch vụ đã làm ra trong một năm của một
quốc gia, do vậy, gia tăng khả năng sản xuất hàng hoá dịch vụ trong nước đồng nghĩa với
việc gia tăng thu nhập quốc dân của quốc gia đó.
Thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
Quan hệ thương mại phát