Đề tài Sự cần thiết của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và các nghĩa vụ và quyền về tài sản. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng bao gồm: quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định vợ, chồng có quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và vợ, chồng có quyền sở hữu đối với tài sản riêng. Vậy cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng như thế nào?

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự cần thiết của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỐ CỤC ĐỀ TÀI ĐẶT VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Lí luận về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong lịch sử pháp luật nước ta Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Cơ sở lí luận của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng KẾT THÚC VẤN ĐỀ ĐẶT VẤN ĐỀ Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và các nghĩa vụ và quyền về tài sản. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng bao gồm: quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định vợ, chồng có quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và vợ, chồng có quyền sở hữu đối với tài sản riêng. Vậy cơ sở lí luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng như thế nào? GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Lí luận về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong lịch sử pháp luật nước ta Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiến tập quyền kéo dài hàng nghìn năm, luật pháp chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng triết học Nho giáo, Phật giáo… với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “tam tòng tứ đức”, “ngũ luân”… Bên cạnh đó, luật pháp về hôn nhân và gia đình có liên quan nhiều đến phong tục tập quán và đạo đức, rất nhiều điều luật được bắt rễ từ phong tục tập quán của Việt Nam và đi sâu vào tiềm thức, thành thói quen ứng xử trong nhân dân. Cho đến trước khi Cách mạng tháng Tám thành công thì ở Việt Nam vẫn chưa có văn bản luật nào quy định một cách cụ thể và rõ ràng về quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. Nếu có đề cập đến tài sản riêng của vợ, chồng thì cũng chỉ nói qua chứ không chỉ rõ căn cứ xác định cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng đối với tài sản riêng đó. Tài sản riêng của người vợ trong thời kì trước đây thường được hiểu là tư trang, của hồi môn của cha mẹ cho trước khi về nhà chồng. Ví dụ như theo Bộ luật Hồng Đức thời Lê thì khi khi hai vợ chồng li hôn, tài sản riêng của ai người đó giữ, còn tài sản chung thì chia đôi. Còn theo Bộ luật Dân sự Bắc kì và Bộ luật Dân sự Trung kì thì sau khi chồng chết, người vợ góa mà kết hôn với người khác sẽ mất quyền gia trưởng, phải đi khỏi gia đình, chỉ được mang theo tài sản riêng và chỉ có quyền nhận một nửa khối tài sản chung của vợ chồng nếu chồng không có con (Điều 360 Bộ luật Dân sự Bắc kì và Điều 369 Bộ luật Dân sự Trung kì). Nếu không có tài sản riêng thì người vợ góa kết hôn lại có thể được hội đồng gia tộc bên chồng cấp cho một ít tài sản thuộc khối tài sản chung tùy theo công sức đóng góp của người vợ vào khối tài sản ấy (Điều 359 Bộ luật Dân sự Trung kì). Như vậy, trong các văn bản luật trên, quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng không được trực tiếp nhắc đến. Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình ra đời, gồm 35 Điều, 6 chương. Chương III về Nghĩa vụ và quyền lợi của vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc nhau… vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Do hầu hết các tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu Nhà nước hoặc được tập thể hóa, sở hữu tư nhân chỉ bao gồm các tư liệu tiêu dung, vợ chồng hầu như chỉ có các tài sản phục vụ sinh hoạt. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ trong quan hệ gia đình về tài sản, trong bối cảnh cuộc đấu tranh xóa bỏ tàn dư của chế độ phong kiến, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định vợ, chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới (Điều 15). Tuy nhiên do điều kiện hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ nên chưa có điều kiện để thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng cũng như quyền chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời trong thời kì đổi mới của đất nước, gồm 57 Điều, 10 chương. Trong chương III về Nghĩa vụ và quyền của vợ chồng (gồm 9 Điều), Luật quy định đầy đủ về nghĩa vụ, quyền nhân thân và tài sản vợ, chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục thừa nhận trên nguyên tắc tài sản của vợ hoặc chồng là tài sản chung và được sử dụng vì lợi ích chung của gia đình, quy định cụ thể hơn những tài sản nào được coi là tài sản chung, quyền bình đẳng của vợ, chồng trong việc định đoạt khối tài sản chung. Điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là thừa nhận quyền có tài sản riêng và quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng, quy định việc chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 do được ban hành vào đầu thời kì đổi mới của đất nước, lần đầu ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng cho nên khi dự liệu về tài sản riêng của vợ, chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định một cách hết sức “tế nhị”, mềm dẻo, tránh được sự mất ổn định về vấn đề tài sản trong gia đình. Đó cũng là yêu cầu của công tác lập pháp và thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Theo Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì: “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kì hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ, chồng”. Quy định này có tính chất “mở”, “tùy nghi”, cho phép vợ, chồng lựa chọn trong việc nhập hay không nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ, chồng. Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Kế thừa và phát triển các quy định về tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 16), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định chế độ sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng cụ thể hơn, tạo được cơ sở pháp lí thống nhất trong thực tế áp dụng. Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, vợ, chồng với tư cách là công dân, những tài sản do vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân, xét về mặt bản chất kinh tế và pháp lí thì những tài sản đó thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Mặt khác, việc thực hiện và áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ghi nhận quyền sở hữu riêng của vợ, chồng ở nước ta sau hơn 10 năm đã tạo được trong nhân dân sự nhận thức và ý thức tôn trọng tài sản riêng của vợ, chồng. Vì vậy, khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã ghi nhận với tính chất chắc chắn, khẳng định: “1. Vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dung, tư trang cá nhân. 2. Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.” Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khẳng định vợ chồng có quyền có tài sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng. Chỉ những tài sản mà vợ hoặc chồng có từ trước khi kết hôn, tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ hoặc chồng được chia từ khối tài sản chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó, đồ dùng, tư trang cá nhân mới được coi là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Điều 33, 29, 30 của Luật này còn quy định cụ thể về quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt riêng của mỗi bên vợ chồng, về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại: “trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người”. Cơ sở lí luận của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Hầu hết pháp luật các nước cũng như Luật Hôn nhân và gia đình nước ta ghi nhân chế độ tài sản riêng của vợ chồng. Thực chất đây là việc thừa nhận tính độc lập trong quan hệ tài sản của vợ và chồng, đảm bảo tính thống nhất nội tại, chặt chẽ trong chế định sở hữu chung và sở hữu riêng của vợ chồng. Không nên cho rằng quy định chế độ tài sản riêng của vợ chồng sẽ gây nên tâm lí “của anh của tôi” làm cho tình cảm vợ chồng bị sứt mẻ. Thực tế cuộc sống cho thấy, trong đời sống gia đình khi hôn nhân đang tồn tại thì không bao giờ phân biệt rạch ròi của chung của riêng, đây là vấn đề hết sức phức tạp và tế nhị. Vấn đề sở hữu tài sản bao giờ cũng được điều chỉnh hợp lí, phù hợp với từng gia đình. Việc xác định tài sản của vợ chồng chỉ thực sự có ý nghĩa khi phải giải quyết các tranh chấp có liên quan đến tài sản của vợ hoặc chồng khi cần thanh toán tài sản mà bản thân người vợ hoặc chồng tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế cụ thể nào đó. Quy định vợ chồng có tài sản riêng là rất cần thiết, nó bảo vệ quyền lợi chính đáng của hai vợ chồng đối với tài sản riêng của họ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Ngày nay do kết quả của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, vai trò lao động và vai trò kinh tế của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội rất lớn và bình đẳng với nam giới. Vì vậy pháp luật quy định vợ chồng có quyền sở hữu những tài sản riêng không ảnh hưởng đến lợi ích của vợ chồng, không ảnh hưởng đến lợi ích về quyền bình đẳng của các công dân trước pháp luật. Tuy nhiên với điều kiện tâm lí, phong tục tập quán, thói quen.. việc phân định tài sản riêng của vợ chồng gặp nhiều trở ngại, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng và ý thức của mỗi công dân và gia đình trong xã hội. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thừa nhân, ngoài chế định tài sản chung của vợ chồng còn khẳng định vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Việc thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng là một bảo đảm pháp lí quan trọng trong cuộc sống, lao động, sinh hoạt của từng cá nhân công dân không bị chi phối bởi một yếu tác động tình cảm nào. Điều 52 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” và thừa nhận các nhân có quyền có tài sản hợp pháp tại Điều 23 Hiến pháp 1992: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa…”, họ có quyền “tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” theo Điều 57 Hiến pháp 1992. Điều 58 Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Trước khi kết hôn, hai bên nam nữ chưa phải là vợ chồng của nhau trước pháp luật. Theo tính chất nghề nghiệp, công việc của mỗi người, các tài sản đó do mỗi người tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác của mỗi người đều thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ chồng. Với tư cách là công dân, mỗi bên vợ chồng là chủ sở hữu những tài sản của mình có được trước khi kết hôn, những tài sản riêng và quyền sở hữu của mỗi người đối với tài sản riêng đó được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Xét về nguồn gốc, những tài sản này không phải do vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân, không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Trong xã hội ta hiện nay, Đảng và Nhà nước bằng pháp luật với các chính sách, đường lối đổi mới và phát triển nền kinh tế xã hội, khuyến khích và bằng nhiều biện pháp tạo điều kiện cho công dân tạo ra thu nhập, tài sản làm giàu cho cá nhân, gia đình và xã hội nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người đang ngày càng cao và phong phú. Vậy, pháp luật phải cụ thể hóa Hiến pháp và bảo đảm sở hữu riêng của công dân. Điều này đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 (Bộ luật dân sự 1995 trước đây) từ Điều 211 đến Điều 213. Điều 212 Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận tài sản thuộc sở hữu tư nhân bao gồm: “Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân”. Như vậy, trong hôn nhân, vợ chồng có quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng phục vụ cho nhu cầu của mình với bất kì mục đích gì miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Theo Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ghi nhận: “Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Như vậy, vợ chồng tồn tại với tư cách là các chủ sở hữu tài sản riêng của mình một cách độc lập trong phạm vi tài sản mà Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định. Theo luật định, sự kiện kết hôn không làm mất đi quyền sở hữu riêng tài sản của họ. Theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản  riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình  thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng. Việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không chỉ phù hợp với Hiến pháp và Bộ luật Dân sự mà còn phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người dân. Xuất phát từ nhu cầu thực tế trong cuộc sống hàng ngày, mỗi cặp vợ chồng tuy chung sống với nhau trong cùng một mái nhà nhưng dù là ai thì mỗi bên vợ chồng vẫn là một thực thể tồn tại độc lập,mỗi người đều cần có khoảng trời riêng để tự định đoạt các vấn đề riêng của mình. Ví dụ như để có thể đáp ứng một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất nhu cầu, sở thích cá nhân của mỗi người, đáp ứng mong muốn làm ăn, kinh doanh chính đáng của bản thân mà không muốn làm ảnh hưởng đến tài sản chung của gia đình, cũng nhằm tránh tình trạng người vợ hay chồng chỉ kết hôn với người còn lại nhằm mục đích tài sản, phá vỡ truyền thống và mục tiêu tốt đẹp của gia đình. Thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã quy định cụ thể về thành phần tài sản chung của vợ chồng cũng như thành phần tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng nhưng trong thực tế xét xử vẫn có những vướng mắc và những sai lầm trong việc xác định khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Vướng mắc thường hay gặp nhất là đối với tài sản vợ chồng được tặng choc hung trong thời kì hôn nhân, khi vợ chồng li hôn thì người tặng cho tài sản lại nói rằng họ chỉ cho riêng vợ hoặc chồng. Nhiều trường hợp vợ chồng được cha mẹ bên vợ hoặc bên chồng tặng cho tài sản, vợ chồng đã cùng nhau sử dụng trong nhiều năm nhưng khi vợ chồng li hôn thì cha mẹ lại nói rằng cho riêng con trai hay con gái chứ không phải cho chung vợ chồng. Đối với những trường hợp này, Tòa án cần điều tra và đánh giá thận trọng để có quyết định đúng đắn. Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N đã xét xử sơ thẩm vụ án li hôn giữa chị Y và anh K. Anh chị kết hôn vào năm 1994 và sống chung với cha mẹ chồng một thời gian thì ra ở riêng. Khi anh chị xây nhà ở, bố anh K có cho tiền để mua nguyên vật liệu với số tiền chiếm một nửa số tiền mà anh chị xây nhà. Anh chị chung sống trong căn nhà đó được năm năm thì li hôn. Khi anh chị li hôn, bố anh K đòi được chia một nửa giá trị ngôi nhà, tương đương với số tiền trước đây ông đã cho vợ chồng anh chị để xây nhà. Tòa án nhân dân huyện V đã coi số tiền mà ông bố anh K đã cho vợ chồng anh chị trước đây là khoản nợ chung của anh chị và quyết định anh chị phải trả số nợ đó. Thiết nghĩ, trong trường hợp này Tòa án đã sai lầm trong việc xác định đây là khoản nợ chung. Lẽ ra số tiền mà ông bố anh K đã cho anh chị để mua nguyên vật liệu xây nhà phải coi là tài sản mà anh chị được cho chung và là tài sản chung của vợ chồng. Bởi vì ngay trong lí do mà bố anh K đưa ra để đòi chia một nửa giá trị ngôi nhà đã thể hiện rõ ông đã cho vợ chồng anh K số tiền đó: “tiền tôi cho để xây nhà nhưng vợ chồng phải ở với nhau, nếu li hôn thì tôi đòi lại…”. Trong trường hợp này, bố anh K không có quyền đòi lại những tài sản mà trước đây ông đã cho cũng như không có quyền yêu cầu chia một nửa giá trị ngôi nhà đó vì đó là tài sản chung của anh K và chị Y. Có trường hợp cha mẹ tặng cho con tài sản khi còn đang tồn tại quan hệ hôn nhân nhưng trong giấy tặng cho tài sản không ghi là tặng cho vợ chồng con mà chỉ ghi là cho một người (là con trai hoặc con gái), nhưng vợ chồng đã cùng nhau sử dụng trong một thời gian dài, đến khi vợ chồng có mâu thuẫn thì người được tặng cho tài sản trả lại cho bố mẹ tài sản đó. Đối với trường hợp này, tài sản đó có được xác định là tài sản chung của vợ chồng hay không? Ví dụ: Vụ li hôn giữa anh H và chị N. Anh H và chị N kết hôn năm 1991, có hai con chung, có một số tài sản là động sản và ngôi nhà nằm trên diện tích 6907 m2 đất. Diện tích đất này trước đây là của ông T và bà L (là bố mẹ anh H). Ngày 08.04.1997, ông T và bà L đã viết giấy chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh H. Sau đó vợ chồng anh chị H và N đã xây một nhà lợp ngói diện tích 40 m2 và trồng cây ăn quả trên diện tích đó. Khi vợ chồng có mâu thuẫn ngày 20.11.2000, anh T đã viết giấy trả lại bố mẹ 6907 m2 đất nói trên. Tháng 1 năm 2001, anh T làm đơn yêu cầu được li hôn với chị N. Khi Tòa án tiến hành lấy lời khai của vợ chồng, về vấn dề tài sản, chị N cho rằng diện tích 6907 m2 đất là tài sản chung của vợ chồng nhưng anh H cho rằng đất đó không phải là tài sản chung của vợ chồng. Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B xác định diện tích 6907 m2 đất đó là tài sản chung của vợ chồng anh H chị N. Anh H kháng cáo. Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh H đã y án sơ thẩm, xác định diện tích 6907 m2 đất là tài sản chung của vợ chồng anh H chị N. Rõ ràng là Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm xác định diện tích đất mà vợ chồng anh H được cha mẹ cho là tài sản chung của vợ chồng là hoàn toàn phù hợp với các quy định của hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã xác định rõ chế độ tài sản của vợ chồng gồm sở hữu của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng. Đây là cơ sở pháp lí để xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản cũng chính là cơ sở pháp lí để Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng tại các Điều 32, 33, 29, 30, việc quy định như vậy là phù hợp với chế định quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân đã được Hiến pháp thừa nhận (Điều 58 Hiến pháp 1992) và cũng phù hợp với những quy định về quyền sở hữu tư nhân trong Bộ luật Dân sự. Việc quy định vợ, chồng có tài sản riêng không làm ảnh hưởng đến tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình mà để nhằm đảm bảo cho mỗi bên vợ, chồng có thể thực hiện các nghĩa vụ về tài sản một cách độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của bên kia… Luật đã xác định rõ chế độ tài sản của vợ, chồng gồm sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng. Đây là chế độ tài sản mà pháp luật đã quy định. Vợ chồng không thể tự thỏa thuận để làm thay đổi chế độ tài sản của họ mà hãy cùng nhau thực hiện nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ về tài sản của mình để góp phần xây dựng gia đình ngày càng ấm no, hạnh phúc. TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
Luận văn liên quan