Tình hình thế giới, vào thế kỉ XIX chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền - chủ nghĩa đế quốc. Việc tìm kiếm thị trường buôn bán và truyền giáo được coi là những phát kiến giúp các nước tư bản phát triển và đặt ách thống trị dưới nhiều hình thức với các dân tộc thuộc địa. Đến năm 1914, các cường quốc đã phân chia xong đất đai trên thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhân dân các nước thuộc địa bị chúng tước hết những giá trị văn hóa, tinh thần, quyền lợi vật chất và địa vị làm người.Mạng sống của người dân thuộc địa "không đáng một đồng trinh".
Trong xã hội tư bản đã có mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, chủ nghĩa đế quốc đã phát sinh thêm một mâu thuẫn mới - Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa thực dân. Mâu thuẫn này ngày càng phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu trở thành một trong những mâu thuẫn cơ bản hết sức sâu sắc và gay gắt của thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, sự lớn mạnh của Nhà nước Liên bang Xô viết do Đảng Cộng sản lãnh đạo và sự ra đời của quốc tế cộng sản đã tạo điều kiện, tiền đề lý luận và thực tiễn và là chỗ dựa của phong trào giải phóng dân tộc, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, thúc đẩy phong trào này phát triển mạnh mẽ, ngày càng xích lại và kết hợp với phong trào công nhân
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2233 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang chủ nghĩa cộng sản trong nhận thức tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: SỰ CHUYỂN BIẾN TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHÂN CHÍNH SANG CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TRONG NHẬN THỨC TƯ TƯỞNG CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC
A – BỐ CỤC
I – Vài nét về cuộc đời của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.Hoàn cảnh lịch sử khi Người ra đi tìm đường cứu nước.
II – Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911- 1917).
III – Bước chuyển biến về chất trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang chủ nghĩa cộng sản.
IV - |Hoạt động cứu nước dựa trên lập trường của chủ nghĩa cộng sản (1921 – 1925).
V - Kết luận.
VI – Danh mục tài liệu tham khảo.
B – NỘI DUNG.
I - Bối cảnh lịch sử.
Tình hình thế giới
Tình hình thế giới, vào thế kỉ XIX chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền - chủ nghĩa đế quốc. Việc tìm kiếm thị trường buôn bán và truyền giáo được coi là những phát kiến giúp các nước tư bản phát triển và đặt ách thống trị dưới nhiều hình thức với các dân tộc thuộc địa. Đến năm 1914, các cường quốc đã phân chia xong đất đai trên thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhân dân các nước thuộc địa bị chúng tước hết những giá trị văn hóa, tinh thần, quyền lợi vật chất và địa vị làm người....Mạng sống của người dân thuộc địa "không đáng một đồng trinh".
Trong xã hội tư bản đã có mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, chủ nghĩa đế quốc đã phát sinh thêm một mâu thuẫn mới - Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa thực dân. Mâu thuẫn này ngày càng phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu trở thành một trong những mâu thuẫn cơ bản hết sức sâu sắc và gay gắt của thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, sự lớn mạnh của Nhà nước Liên bang Xô viết do Đảng Cộng sản lãnh đạo và sự ra đời của quốc tế cộng sản đã tạo điều kiện, tiền đề lý luận và thực tiễn và là chỗ dựa của phong trào giải phóng dân tộc, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, thúc đẩy phong trào này phát triển mạnh mẽ, ngày càng xích lại và kết hợp với phong trào công nhân.
Mặt khác, trong thời kỳ đế quốc thực dân hóa, các dân tộc thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường chủ nghĩa tư bản thực dân. Đó cũng là một yếu tố làm cho chủ nghĩa tư bản thực dân. Đó cũng là một yếu tố làm cho chủ nghĩa Mác dễ dàng xâm nhập vào các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Châu Á và Đông Dương. Bản thân sự du nhập chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào lại tạo ra một cách không tự giác cho các dân tộc bị áp bức cả ý thức lẫn phương tiện và phương pháp để tự giải phóng.Sự thức tỉnh dân tộc tăng lên mạnh mẽ cả bề rộng lẫn bề sâu từ những năm 20 của thế kỷ, nhất là từ sau cách mạng Tháng Mười Nga và Liên Bang Xô Viết ra đời.
2. Tình hình trong nước.
Sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã khiến cho nước ta rơi vào vòng thống trị của bọn thực dân Pháp. Đưa nước ta từ một nước độc lập trở thành một nước nô lệ phụ thuộc Pháp
Hoàn thành việc xây dụng bộ máy cai trị trên đất nước ta, Pháp tến hành khai thác thuộc địa ở Đông Dương. Hai cuộc khai thác (1896 - 1914) và (1924 - 1929) đã làm cho kinh tế - xã hội nước ta thay đổi. Chúng cướp đoạt tài nguyên, bóc lột công nhân rẻ mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc.
Dưới ách thống trị của tư bản thực dân, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ tiếp tục bị đòa sâu thêm, xuất hiện thêm một mâu thuẫn mới, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt và giữ vai trò chính trong xã hội Việt Nam thời đó.
Sự phản kháng của nhân dân ta đối với thực dân Pháp ngày càng tăng cao, thời kỳ này đã xuất hiện những phong trào cách mạng, những tổ chức yêu nước, nhưng các phong trào đó lần lượt tan rã. Đòi hỏi một con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc.
I – Vài nét về cuộc đời lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc, hồi nhỏ mang tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19-5-1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha của Người là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Xuất thân trong một gia đình trí thức nho học, ngay từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã được hấp thụ một nền giáo dục truyền thống phong phú, hiểu biết sâu sắc về lịch sử, về những giá trị văn hóa dân tộc, am tường văn hóa phương Đông, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc.Phải nói thêm rằng, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã tận dụng mọi cơ hội để đưa các con đi làm quen với nhiều nơi trên đất nước ta, đó cũng là cơ hội tiếp xúc với nhiều nhân vật yêu nước lúc bấy giờ. Trong thời gian học ở Quốc Học Huế, được đọc sách báo nước ngoài, Người được trang bị thêm kiến thức về văn hóa và khoa học – kỹ thuật phương Tây, sớm hòa mình vào cuộc sống của quần chúng lao khổ và tham gia phong trào yêu nước. 18 tuổi tham gia vào cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Trung Kì.
Quê hương, gia đình và sự nhập cuộc của bản thân đã làm chín muồi trong tư tưởng, tình cảm của người thanh niên Nguyễn Tất Thành mong muốn mãnh liệt đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Đó cũng là ý nguyện của toàn thể dân tộc ta lúc bấy giờ, nhưng để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn là một việc không hề dễ dàng.
Lúc này, những phong trào kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã nổ ra: như phong trào Cần Vương, phong trào nông dân Yên Thế, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, cuộc vận động Đông Kinh Nghĩa Thục.....Tất cả đều thất bại vì không có một đường lối lãnh đạo đúng đắn. Thất bại của những phong trào này chứng tỏ sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự bất lực của hệ tư tưởng tư sản, chuẩn cho một tiền đề phương hướng mới trong phong trào giải phóng dân tộc.
Nguyễn Tất Thành lúc đó đã thấy rõ những mặt hạn chế của các con đường cứu nước của các bậc tiền bối. Người cho rằng cần phải có một con đường mới khác hẳn với những bước chân đã đi của những phong trào trước. Người thấy đằng sau cụm từ: “Tự do- bình đẳng – Bác ái” mà người Pháp luôn rêu rao, thực chất nó là như thế nào. Thời kì này, Người vẫn chưa đọc, chưa biết về những tư tưởng lớn của phương tây, vậy chỉ có con đường đến với phương Tây, Nguyễn Tất Thành mới có thể tìm hiểu hết được những gì đằng sau khẩu hiệu “ Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của người Pháp.
Ngày 05/06/1911, tại bến cảng Nhà Rồng – Sài Gòn , người Thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng và một lòng yêu nước nồng nàn. Vận mệnh lớn của nước, của dân gắn bó mật thiết với quyết định mà lịch sử đã chứng minh là sáng suốt và phi thường.
II- Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 – 1917).
Ngày 05/06/1911, lấy tên là Văn Ba, Người xin làm phụ bếp trên một tàu lái buôn của người Pháp bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước cho toàn dân tộc
Qua một hải trình dài, đi qua nhiều nước khác nhau như Singapore, Srilanka, Ai Cập...Cuối cùng tàu đô đốc La Tút Sơ Tê Rê vin cập cảng Macxay ( Pháp). Tại đây, Bác đã làm nhiều nghề, được đi nhiều nơi trên thế giới. Đi vòng quanh Châu Phi, qua nhiều nước Châu Âu và Châu Phi. Năm 1912, Người đến New York, tại đây, Người dành một thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng. Người nhận thấy cảnh người nô lệ bị áp bức bóc lột dã man dưới sự kìm kẹp của bọn đế quốc. Năm 1913, người chuyển sang hoạt động tại Anh, và đến năm 1917 lại chuyển về hoạt động tại Pháp. Như vậy, từ năm 1911 đến năm 1917, Người đã có sự trải nghiệm vô cùng đáng quý, đi qua khắp các châu lục, làm rất nhiều nghề từ phụ bếp, làm vườn, quét tuyết, bán báo, làm báo.... vừa lao động vừa kiếm sống, vừa hoạt động vừa học tập vừa hoạt động cách mạng. Có thể nhận thấy một điều rằng, quá trình bôn ba của Nguyễn Ái Quốc chính là quá trình tự “vô sản hóa” của Người, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc,cùng chịu sự tàn ác của bọn tư bản đối với người dân vô sản, Người đã rút ra một kết luận : “ở đâu nhân dân lao động cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc cũng là thù”, “dù có màu da khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Ở các nước thuộc địa, đâu đâu Bác cũng thấy người lao động bị chủ nghĩa thực dân đế quốc đày ải trong tủi nhục, đói nghèo, bị bóc lột, đàn áp dã man và ở đâu các dân tộc bị áp bức cũng đề có khát vọng đấu tranh đòi giải phóng. Ý thức quốc tế trong Người được hình thành từ đó.
Ở các nước tư bản phát triển, tự xưng là văn minh, Bác cũng thấy hai loại người: tầng lớp trên sống hết sức xa hoa, thừa thãi, còn đa số nhân dân lao động phải sống cuộc sông nheo nhóc, bần hàn.Chính do sự cảm thông, yêu thương những người cùng khổ và lòng căm ghét bọn tư bản, đế quốc, thực dân, mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Bác từng bước được nảy nở. Những nhận biết căn bản đó đã thôi thúc Bác quyết tâm tìm ra con đường giải phóng mà Người dã nung nấu, ấp ủ từ khi rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước.
II – Bước chuyển biến trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, địa bàn Người chọn là Pari, trung tâm chính trị, văn hóa không chỉ của nước Pháp mà còn của cả Châu Âu, của cả văn minh phương Tây lúc đó. Pari như là điểm hẹn lịch sử của các bậc vĩ nhân lớn trên thế giới, những nhà cách mạng lớn hầu hết đều có mặt ở đây. Lúc Nguyễn Tất Thành có mặt ở đây cũng là lúc lịch sử nhân loại bước sang một trang mới, tình hình chính trị có những chuyển biến lớn lao. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, Pari đang ở trong những ngày sục sôi với những cuộc đấu tranh giai cấp của công nhân Pháp và sự chuyển mình của những người cánh tả trong Đảng Xã Hội Pháp theo đường lối quốc tế cộng sản của VI.Lenin.
Với nhiệt huyết của một người yêu nước, Người hăng hái tham gia vào phong trào đấu tranh chống đế quốc, bảo vệ cách mạng Tháng Mười, bảo vệ nước Nga Xô viết non trẻ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người cùng với Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh thành lập “Hội những người yêu nước Việt Nam nhằm đưa phong trào yêu nước đi theo một hướng tích cực.
Năm 1919, Bác tham gia Đảng Xã hội Pháp, một Đảng tiến bộ lúc bấy giờ. Ngày 18.06.1919, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, gửi tới hội nghị Vecxai bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đòi chính phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng và tự quyết của dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách gồm có 8 điểm như sau:
Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về pháp luật như người Âu châu.
Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
Tự do lập hội và hội họp.
Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ.
Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Bản yêu sách không được thông qua, nhưng đã trực diện tấn công vào chủ nghĩa đế quốc, có tiếng vang lớn trong cộng đồng quốc tế, cổ vũ nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và cá xứ thuộc địa trên toàn thế giới sự sôi sục đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ đế quốc, mang danh là “ bình đẳng, bác ái” nhưng thực chất chỉ là ăn cướp hèn hạ. Qua sự kiện này, Người cũng đưa ra một nhận định: “ chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Những hoạt động này là đòn bẩy để đưa đến những chuyển biến về chất trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang chủ nghĩa cộng sản.
Vào giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốcđược đọc bản sơ thảo lẩn thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Leenin đăng trên báo Nhân đạo – cơ quan trung ương của Đảng cộng sản Pháp. Luận cương của Lenin đã cho Nguyễn Ái Quốc thấy con đường giải phóng, giành độc lập tự do cho dân tộc. Người vui mừng đến phát khóc và muốn hét to lên như đang nói trước đông đâỏ quần chúng nhân dân lao động: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho mỗi chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước mới. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Cũng từ đây, người dứt khoát tin theo Lênin và đứng về Quốc tế thứ III.
Tại đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ III, bỏ phiếu đồng tình việc thành lập Đảng cộng Sản Pháp và trở thành một trong những Đảng viên đầu tiên sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp.
Bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Thứ III và tham gia Đảng Cộng Sản Pháp là sự kiện đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước sang lập trường Cộng Sản. Đây cũng là dấu mốc đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam , là giai đoạn “gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang chủ nghĩa Mác – Lênin.”Sự kiện này có ý nghĩa hết sức to lớn, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại, một đại diện của giai cấp công nhân và dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập Đảng tiên phong cho giai cấp công nhân ở một nước đế quốc lớn đang áp bức dân tộc mình. Vậy có nghĩa thông qua Nguyễn Ái Quốc, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam bắt tay với công nhân Pháp hợp thành một mặt trận đánh đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản Pháp. Sự kiện đó còn mang một ý nghĩa tượng trưng cho xu thế cách mạng mới – tình đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới theo khẩu hiệu của Quốc tế Cộng sản.
Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đến với chủ nghĩa cộng sản, trở thành người cộng sản. Có người xuất thân từ giai cấp vô sản, được giác ngộ và trở thành Đảng viên. Có người là trí thức tiến bộ giác ngộ chủ nghĩa Mác và hoạt động trong phong trào công nhân, trở thành người cộng sản...Còn Nguyễn Ái Quốc, Người đến với chủ nghĩa Mác theo cách riêng của Người.Từ một người dân thuộc địa, phong trào công nhân chưa phát triển, chủ nghĩa Mác – lenin còn khá xa vời, Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, vượt qua mọi khó khăn trở ngại để khảo nghiệp và tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lenin. Người kiên quyết đúng về những phương pháp, cách thức tiến hành cách mạng vì quyền lợi của người dân lao động bị áp bức. Điều đó hợp với chân lý thời đại khi mà cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
Ánh sáng của cách mạng Tháng Mười Nga chiếu soi để Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, đó là một bước ngoạt vĩ đại của dân tộc. Nhưng không phải ai cũng nhìn thấy ở cách mạng Tháng Mười con đường giải phóng như Nguyễn Ái Quốc. Đã có rất nhiều chí sĩ yêu nước, sống rất lâu trên đất Pháp như: luật sư Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh....học đã có rất nhiều tài liệu tiếng Pháp nói về tư tưởng tự do, bác ái. Nhưng chỉ đến Nguyễn Ái Quốc, Người mới tìm ra được cái tin túy nhất trong chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng nó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã trở thành Đảng viên cộng sản đầu tiên của nước ta.
Sở dĩ, Bác tiếp thu được những điều đó bởi ngay từ ban đầu, Người đã định hình được việc mình ra đi là để tìm một con đường đi đúng đắn nhất cho dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đi, học tập, hoạt động người đã chuẩn bị chu đáo về lập trường , nhạy cảm về chính trị, đặc biệt quan trọng nhất đó là quá trình tự “ vô sản hóa”, để đên khi gặp được chủ nghĩa Mác – Lenin, Người thấy ngay được cái gì là cần thiết nhất cho dân tộc, Người là một học trò ưu tú nhất của chủ nghĩa Mác – khi tiếp thu không máy móc khuôn sáo, mà luôn có sự chắt lọc, tìm tòi, đổi mới để Phù hơp với cách mạng Việt Nam. Điều này các nhà yêu nước việt Nam như Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh, và cả các nhà cách mạng cử các nước khác đều không làm được. Đây là cái khác, cái hơn hẳn và cũng là công lao to lớn của Bác đối với dân tộc Việt Nam.
III – Hoạt động cứu nước trên lập trường của chủ nghĩa Cộng Sản (1921 – 1925).
Thời kỳ ở Pháp
Sau khi tiếp thu được ánh sáng của chủ nghĩa Mác – lenin, chịu sự ảnh hưởng của cách mạng Tháng Mười Nga. Người ở lại Pháp thực hiện sứ mệnh truyền bá chủ nghĩa Mác – lenin vào trong nước nhằm chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập một chính Đảng ở nước ta.
Giữa năm 1921, tại Pháp Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước của Angieri, Maroc, Tuynidi....... thành lập hội liên hiệp thuộc địa tại Pari. Để tiến hành tuyên truyền những đường lối, chủ trương của hội, Nguyễn Ái Quốc và những nhà lãnh đạo hội quyết định ra báo “Người cùng khổ” vào năm 1922. Báo Người cùng khổ tố cáo sự lạm quyền về chính trị, sự độc đoán về hành chính, sự bóc lột về kinh tế mà nhân dân trên các lãnh thổ rộng lớn ở hải ngoại đang là nạn nhân. Báo kêu gọi họ đoàn kết để đấu tranh cho sự tiến bộ cả về vật chất và tinh thần của chính họ. Báo hô hào tổ chức lại nhằm mục đích đòi giải phóng những người bị áp bức thoát khỏi ách thống trị của đế quốc, thực hiện tình thương yêu và hội ái hữu.
Ngoài việc lập Hội liên hiệp thuộc địa và ra báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc còn tích cực thực hiện các biểu diên thuyết, đặc biệt là viết và đăng trên các tờ báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân, tập san Thư tín quốc tế. Năm 1925, Người cho in tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp ở Pari
Ngoài báo chí, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng những hình thức khác như diễn thuyết, viết kịch để truyền bá tư tưởng cách mạng của mình. Những hình thức truyền bá này tuy không đến được với đồng bào Việt Nam nhưng cũng góp phần tác động mạnh đến bộ phận Việt Kiều sống tại Pháp, hướng họ dến cách nghĩ về đất nước và thôi thúc hành động.
Có thể nói, với sự xuất hiện của tờ báo Người cùng khổ, một phương tiện truyền bá chủ yếu thời kì này, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc theo quan điểm macxit đến với nhân dân ta thường xuyên và có hệ thống.
Như vậy, thời gian Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở pháp tuy không dài lắm nhưng rất quan trọng đối với cách mạng nước ta. Đó là thời kì Nguyễn Ái Quốc đặt nền móng cho toàn bộ sự nghiệp của mình, cũng là toàn bộ tương lai của đất nước. Không có thời kỳ mở đầu có hiệu quả này thì không có thời kì sau - thời kỳ Matxcơva. Nếu như ở thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã dồn toàn bộ tư tưởng cách mạng theo quan điểm Mác - Lenin về nước mà trọng tâm là thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân thì ở thời kỳ tiếp theo là định hướng cho cuộc vùng dậy đó tới Cách mạng tháng Mười Nga, đây là thời kì phác thảo những nét cơ bản nhất về chiến lược cách mạng nước ta.
Thời kì ở Liên Xô
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Liên Xô thủ phủ của xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian ở lại Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc ra sức tìm hiểu mọi mặt của chế độ Xô viết, tích cực nghiên cứu các vấn đề về dân tộc và thuộc địa của quốc tế cộng sản. Bên cạnh đó, Người còn tham dự nhiều hội nghị quốc tế quan trọng như: Đại hộc quốc tế nông dân, Đại hộ quốc tế công hội đỏ.
Ngoài việc tham gia các hội nghị, Nguyễn Ái Quốc vẫn tích cực học tập để hiểu sâu hơn về chủ nghĩa Mác - Lenin. Cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia một lớp học ngắn hạn của Trường Đại học Phương Đông - ngôi trường chuyên đào tạo ra những lãnh tụ cho phong trào cách mạng vô sản, qua đây Người thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị, và việc phổ biến lý luận đó vào phong trào cách mạng Việt Nam.
Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm cán bộ cử ban Phương Đông Quốc Tế Cộng sản. Điều đó đã cho thấy vai trò và uy tín của Người ngày càng cao trong phong trào cách mạng và cô