Đề tài Sự đổi mới nội dung thông tin ở cơ quan Báo, Đài Phát thanh và truyền hình trong cơ chế thị trường

Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Nhịp sống hiện đại đòi hỏi con người lựa chọn hình thức thông tin nhanh gọn, trực tiếp, dễ nhớ, dễ hiểu. Chính vì vậy, các cơ quan Báo, Đài muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin cũng như hình thức thể hiện nhằm đáp ứng nhu cầu, mong đợi của bạn đọc trong và ngoài nước. Vấn đề đổi mới nội dung thông tin là vấn đề then chốt hàng đầu của các toà soạn, các cơ quan báo in, PT - TH trong cả nước. Báo chí rất cần đến sự đổi mới, nó phải liên tục, phải cập nhật thông tin một cách nhanh chóng kịp thời để đưa những thông tin mới, mang tính thời sự đến cho công chúng. Nội dung thông tin càng hấp dẫn thì thu hút được khán thính giả, bạn đọc càng nhiều. Chính sự đổi mới nội dung thông tin có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển của một tờ báo nói riêng hay của cơ quan báo chí nói chung. Do đó em đã chọn đề tài: " Sự đổi mới nội dung thông tin ở cơ quan Báo, Đài PT - TH trong cơ chế thị trường". 2. Mục đích ngiên cứu Nghiên cứu đề tài này, mục đích chúng ta thấy được thực trạng nội dung thông tin của cơ quan Báo, Đài hiện nay. Thông qua đó đưa ra định hướng phát triển cho cơ quan báo chí nói chung và của Đài PT - TH Phú Thọ nói riêng trong thời gian tới. Việc nghiên cứu nội dung này cũng là điều quan trọng, là hành trang cần thiết với những ai theo nghiệp báo chí. Đồng thời qua đề tài này giúp em nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới nội dung thông tin, vai trò của nó trong cơ chế thị trường để duy trì một cơ quan báo chí tồn tại và phát triển. Giúp em có thể từ lý luận đi đến thực tiễn một cách sâu sắc hơn. 3. phạm vi nghiên cứu Đề tài: " Sự đổi mới nội dung thông tin ở cơ quan Báo, Đài PT - TH trong cơ chế thị trường" là một đề tài khá rộng và phức tạp. Nhưng do kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, tiểu luận hoàn thành trong thời gian ngắn nên em đã chọn lọc một số cuốn sách, báo để tìm hiểu phần lý thuyết và lấy Đài PT - TH Phú Thọ làm cơ sở thực tiễn để nghiên cứu đề tài này. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đổi mới cũng như nâng cao chất lượng nội dung thông tin em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn. * Về lý luận: - Trên cơ sở lý luận báo chí và quá trình tìm hiểu sách báo chuyên ngành liên quan đến nội dung đề tài. - Vận dụng, huy động vốn kiến thức trong nhà trường qua các bài giảng của các thầy cô, đồng thời qua sự hướng dẫn của giảng viên - Phân tích đề tài một cách cặn kẽ, chi tiết. Sau đó chia đề tài thành những phần nhỏ để đi sâu tìm hiểu một cách rõ nét. - So sánh nội dung thông tin trước đó và sau này. Để từ đó thấy được những ưu điểm của việc đổi mới nội dung thông tin. * Về thực tiễn: Khảo sát nội dung thông tin các chương trình tại Đài PT - TH Phú Thọ; đồng thời phân tích, đánh giá, tổng hợp, tìm hiểu quá trình phát triển và việc áp dụng tuyên truyền đổi mới trong nội dung thông tin. Đúc rút kinh nghiệm biết được trong quá trình đi thực tập, qua quan sát vấn đề, sự kiện nhạy bén. 5. Kết cấu tiểu luận Tiểu luận được chia làm 3 phần. Phần mở đầu. Phần nội dung. Chương I: Cơ sở lý luận chung về đổi mới nội dung thông tin của các Báo, Đài trong cơ chế thị trường. Chương II: Cơ sở thực tiễn của sự đổi mới nội dung thông tin tại Đài PT – Th Phú Thọ. Phần kết luận:

doc39 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự đổi mới nội dung thông tin ở cơ quan Báo, Đài Phát thanh và truyền hình trong cơ chế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Nhịp sống hiện đại đòi hỏi con người lựa chọn hình thức thông tin nhanh gọn, trực tiếp, dễ nhớ, dễ hiểu. Chính vì vậy, các cơ quan Báo, Đài muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin cũng như hình thức thể hiện nhằm đáp ứng nhu cầu, mong đợi của bạn đọc trong và ngoài nước. Vấn đề đổi mới nội dung thông tin là vấn đề then chốt hàng đầu của các toà soạn, các cơ quan báo in, PT - TH trong cả nước. Báo chí rất cần đến sự đổi mới, nó phải liên tục, phải cập nhật thông tin một cách nhanh chóng kịp thời để đưa những thông tin mới, mang tính thời sự đến cho công chúng. Nội dung thông tin càng hấp dẫn thì thu hút được khán thính giả, bạn đọc càng nhiều. Chính sự đổi mới nội dung thông tin có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển của một tờ báo nói riêng hay của cơ quan báo chí nói chung. Do đó em đã chọn đề tài: " Sự đổi mới nội dung thông tin ở cơ quan Báo, Đài PT - TH trong cơ chế thị trường". 2. Mục đích ngiên cứu Nghiên cứu đề tài này, mục đích chúng ta thấy được thực trạng nội dung thông tin của cơ quan Báo, Đài hiện nay. Thông qua đó đưa ra định hướng phát triển cho cơ quan báo chí nói chung và của Đài PT - TH Phú Thọ nói riêng trong thời gian tới. Việc nghiên cứu nội dung này cũng là điều quan trọng, là hành trang cần thiết với những ai theo nghiệp báo chí. Đồng thời qua đề tài này giúp em nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới nội dung thông tin, vai trò của nó trong cơ chế thị trường để duy trì một cơ quan báo chí tồn tại và phát triển. Giúp em có thể từ lý luận đi đến thực tiễn một cách sâu sắc hơn. 3. phạm vi nghiên cứu Đề tài: " Sự đổi mới nội dung thông tin ở cơ quan Báo, Đài PT - TH trong cơ chế thị trường" là một đề tài khá rộng và phức tạp. Nhưng do kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, tiểu luận hoàn thành trong thời gian ngắn nên em đã chọn lọc một số cuốn sách, báo để tìm hiểu phần lý thuyết và lấy Đài PT - TH Phú Thọ làm cơ sở thực tiễn để nghiên cứu đề tài này. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đổi mới cũng như nâng cao chất lượng nội dung thông tin em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn. * Về lý luận: - Trên cơ sở lý luận báo chí và quá trình tìm hiểu sách báo chuyên ngành liên quan đến nội dung đề tài. - Vận dụng, huy động vốn kiến thức trong nhà trường qua các bài giảng của các thầy cô, đồng thời qua sự hướng dẫn của giảng viên - Phân tích đề tài một cách cặn kẽ, chi tiết. Sau đó chia đề tài thành những phần nhỏ để đi sâu tìm hiểu một cách rõ nét. - So sánh nội dung thông tin trước đó và sau này. Để từ đó thấy được những ưu điểm của việc đổi mới nội dung thông tin. * Về thực tiễn: Khảo sát nội dung thông tin các chương trình tại Đài PT - TH Phú Thọ; đồng thời phân tích, đánh giá, tổng hợp, tìm hiểu quá trình phát triển và việc áp dụng tuyên truyền đổi mới trong nội dung thông tin. Đúc rút kinh nghiệm biết được trong quá trình đi thực tập, qua quan sát vấn đề, sự kiện nhạy bén. 5. Kết cấu tiểu luận Tiểu luận được chia làm 3 phần. Phần mở đầu. Phần nội dung. Chương I: Cơ sở lý luận chung về đổi mới nội dung thông tin của các Báo, Đài trong cơ chế thị trường.. Chương II: Cơ sở thực tiễn của sự đổi mới nội dung thông tin tại Đài PT – Th Phú Thọ. Phần kết luận: nội dung Chương 1 Cơ sở lý luận về sự đổi mới nội dung thông tin của các báo, đài trong cơ chế thị trường 1. Khái niệm nôi dung thông tin Thông tin là một khái niệm rất rộng, bao chùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông tin là nội dung của hiện thực xã hội, nó được phản ánh trong tác phẩm báo chí để tác động vào nhận thức làm thay đổi chuyển biến hành vi, thái độ của con người theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực nào đó. Thông tin được dùng chỉ chất lượng nội dung cần thông báo nói chung. Thông tin còn là nền tảng của báo chí. Thông tin liên quan trực tiếp đến tính hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng. Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành "cầu nối" giữa báo chí và công chúng. Thông tin có vai trò rất quan trọng trong mỗi tác phẩm báo chí bởi nội dung thông tin chính là đối lượng, là mục đích phản ánh của báo chí. Nội dung tác phẩm báo chí là một phạm vi, một bộ phận mới mẻ của cuộc sống hiện thực được phản ánh thông qua sự nhận thức, lựa chọn, sáng tạo của nhà báo. Người ta tạm phân chia các yếu tố nội dung chính của tác phẩm báo chí là: sự kiện, chi tiết, vấn đề, chính kiến, đề tài và tư tưởng. Đây là sự phân chia tương đối vì chính bản thân sự kiện đã bao hàm những yếu tố trên. 2. Đặc điểm, nội dung thông tin 2.1. Nội dung thông tin mang tính thời sự Tức là thông tin nóng hổi, kịp thời về những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra, sẽ xảy ra và mới xảy ra. Nhà báo càng đưa tin nhanh, vấn đề mới đang diễn ra thì sẽ thu hút được đông đảo công chúng theo dõi. Tính thời sự còn thể hiện ở thời điểm xảy ra sự kiện, hiện tượng đó có thể là thời điểm đầu, cuối hay thời điểm mới phát hiện cũng gây được sự chú ý của công chúng. Một chương trình thời sự có những sự kiện mới lạ, một cuộc phỏng vấn, toạ đàm đang nói về vấn đề mà gây xôn xao trong dư luận thì chương trình đó ắt sẽ có nhiều người lắng nghe, quan tâm, phản hồi ý kiến ... Như vậy nội dung thông tin mang tính thời sự bao nhiêu thì tác phẩm báo chí, chương trình phát thanh, truyền hình đó sẽ thành công bấy nhiêu. 2.2. Nội dung thông tin mang tính khuynh hướng (tính Đảng) Đảng lãnh đạo hệ thống truyền thông đại chúng, là nguyên tắc hàng đầu, một điều kiện quyết định đảm bảo hiệu quả và sức mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng trong công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước. Tính Đảng thể hiện trong nội dung thông tin tức là báo chí phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, là tiếng nói thể hiện quyền lợi của giai cấp công nhân, đồng thời chịu sự lãnh đạo và tuyên truyền tổ chức, thực hiện đường lối chính sách của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo truyền thông đại chúng được xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Do đó nhiệm vụ đặt ra cho hệ thống truyền thông đại chúng ngày càng nặng nề. Một mặt nội dung thông tin phải mang tính định hướng, đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục. Mặt khác nội dung thông tin có khả năng định hướng dư luận xã hội theo chiều hướng tích cực, giúp nhân dân nhận thức đúng đắn bản chất của các sự kiện, biến cố trong nước và quốc tế. Hơn thế nữa, các phương tiện truyền thông đại chúng còn phải tham gian tích cực và công việc giáo dục chính trị, tư tưởng, hình thành trong nhân dân năng lực nhận thức chính trị, tư tưởng tích cực, một thế giới quan đúng đắn, quan điểm xã hội tiến bộ. 2.3. Nội dung thông tin mang tính khách quan, chân thật Báo chí rất cần đến tính khách quan, chân thật. Đây cũng là một trong những nguyên tắc của hoạt động báo chí, công chúng rất cần biết sự thật, thông tin cho công chúng phải thông tin đúng sự thật bởi lẽ phải là cái mà mọi người đều hướng tới, điều đó đã trở thành chân lý. Tính khách quan, chân thật thể hiện ở việc lựa chọn đề tài, sự kiện, chi tiết và nhận xét đánh giá của nhà báo nhằm mục đích giúp công chúng hiểu được vấn đề, từ đó thấy được việc làm của họ. Lênin từng nói: "Sự thật là sức mạnh của báo chí cách mạng" do đó người cầm bút không vì bất cứ lẽ gì bẻ cong ngòi bút vì tiền bạc, thù oán, nể nang, bao che, nịnh bợ... đều có thể làm cho bài viết thiếu trung thực. Người cầm bút không lợi dụng ưu thế nghề nghiệp để biến thành kẻ đi tống tiền, ép đưa quảng cáo, xin đất đổi nhà gây phiền hà cho địa phương. Nhà báo phải là người hướng dẫn dư luận chống việc làm xấu. 3. Các yếu tố cấu tạo nên nội dung thông tin 3.1. Sự kiện Sự kiện được hiểu là một giai đoạn, một bộ phận, một trạng thái tồn tại nào đó của hiện thực, được nhà báo quan tâm phản ánh vào tác phẩm của mình. Sự kiện tồn tại ở hai mặt là bản thể và nhận thức Sự kiện bản thể là một trạng thái tồn tại, một giai đoạn, một bộ phận của một tiến trình xã hội hay tự nhiên nào đó. Việc xác định ranh giới của sự kiện bản thể chỉ mang tính tương đối, có ý nghĩa như phương pháp nhận thức và phản ánh hiện thực. Sự kiện nhận thức là sự phán đoán trực tiếp của nhà báo về sự khách quan trở thành nội dung thông điệp trong tác phẩm báo chí. Sự kiện nhận thức chỉ bao hàm một khía cạnh, phương diện nào đó của sự kiện bản thể được nhà báo quan tâm chú ý vì chúng có ý nghĩa xã hội với công chúng. Trong cuộc sống hiện thực hàng ngày, hàng giờ có vô số các sự kiện ở các lĩnh vực khác nhau với quy mô tính chất phong phú và đa dạng. Việc lựa chọn sự kiện trong tác phẩm báo chí phụ thuộc vào ý thức quan điểm chính trị – xã hội, trình độ nghề nghiệp và điều kiện làm việc của nhà báo. Đối với tác phẩm báo chí, sự kiện giữ vai trò quan trọng nhất - đó là tư tưởng, vấn đề, xung đột, chứng cứ, hình ảnh, chi tiết, sự khái quát ... Toàn bộ sự phong phú về nội dung của tác phẩm báo chí đều liên quan mật thiết với sự kiện, biểu hiện chủ yếu qua sự kiện. Đồng thời sự kiện còn có ý nghĩa quan trọng trong hệ thống lý luận báo chí. Nó là cơ sở mà căn cứ vào đó có thể giải thích tính chất đặc thù của hoạt động báo chí, chi phối đến các yếu tố khác của hoạt động báo chí. 3.2. Chi tiết Là những bộ phận nhỏ nhất của sự kiện. Chi tiết có thể là một hành vi, một lời nói, một cử chỉ của con người, một sự vật hay một trạng thái cụ thể của hoàn cảnh diễn ra sự kiện. Thông qua các chi tiết, nhà báo phản ánh sự kiện. Nói cách khác, chi tiết là các đơn vị vật liệu để tạo nên sự kiện. Vì thế, lô gíc vận động của sự kiện chính là mối quan hệ giữa các chi tiết cụ thể. Chi tiết có ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm báo chí bởi vì chính chi tiết là cái khách quan ban đầu để tạo thành nội dung khách quan chung của tác phẩm. Vì thế chi tiết có khả năng thuyết phục to lớn, có khả năng biểu đạt ý phong phú, tạo ra tâm lý tin tưởng cho người tiếp nhận thông tin. Nó khác hẳn với những luân lý, sự mô tả là những yếy tố bị chi phối bởi trình độ tri thức, lập trường, quan điểm xã hội, thái độ, mục đích và tình cảm của mỗi cá nhân nhà báo. Mỗi sự kiện có nhiều chi tiết khác nhau. Mỗi chi tiết đều có khả năng biểu đạt những tư tưởng, thái độ, ý nghĩa xã hội ở những tính chất, mức độ khác nhau. Việc lựa chọn được những chi tiết "đắt" là những chi tiết có khả năng phản ánh rõ nhất bản chất của sự kiện bản thể và biểu đạt một cách khách quan ý đồ tư tưởng của tác phẩm. Điều đó không tách rời khỏi tài năng, trình độ nghề nghiệp, năng lực sáng tạo của nhà báo trong hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí. Như vậy, muốn phát hiện và lựa chọn được những chi tiết "đắt" đòi hỏi nhà báo phải có sự hiểu biết bao quát mọi lĩnh vực của sự kiện, tìm hiểu tỉ mỉ, quan sát tinh tế từng bộ phận của sự kiện để chọn chi tiết "đúng - trúng - hay". 3.3 Chính kiến Là sự thể hiện cụ thể, trực tiếp thái độ, quan điểm của nhà báo đối với một sự kiện, vấn đề nào đó. Chính kiến bị chi phối trước kết bởi sự kiện, quy mô, tính chất, ý nghĩa của sự kiện là điều kiện, tiền đề cho sự hình thành chính kiến. Đồng thời nó bị chi phối bởi quan điểm, thái độ, trình độ nhận thức của nhà báo. Đây chính là yếu tố chủ quan. Nhà báo đưa ra chính kiến của mình trên cơ sở sự nhận thức, đánh giá về tính chất, ý nghĩa của sự kiện. Trên thực tế, để khách quan hoá thông tin, các nhà báo thường tìm cách biểu đạt chính kiến của mình thông qua ý kiến của dư luận xã hội hay một nguồn tin nào đó. Sự phù hợp giữa nội dung, tính chất của chính kiến với khuynh hướng của dư luận xã hội cũng là một nhân tố quan trọng góp phần làm cho chính kiến dễ dàng được chấp nhận. Chính kiến dù mang tính chủ quan của nhà báo, song chính kiến phù hợp với dư luận xã hội sẽ tạo nên sự cộng hưởng, làm cho người chấp nhận thông tin dễ bị thuyết phục hơn. 3.4 Vấn đề Là mâu thuẫn giữa các sự kiện trong quá trình vận động, giữa thực trạng và yêu cầu, giữa quy mô, tính chất khách quan của sự kiện, hiện tượng với nhận thức hiện thời về chúng. Vấn đề là yếu tố nội dung mang tính khái quát của tác phẩm báo chí, là kết quả của tình huống có vấn đề và biểu hiện dưới hình thức lô-gíc là một câu hỏi. Việc tìm ra câu trả lời cho vấn đề đặt ra là một yêu cầu của xã hội. Hay nói cách khác, vấn đề là tri thức về các phương diện bộ phận của rhực tiễn mà bản chất đặc trưng của nó chưa được biét đến, nhưng sự hiểu biết vrrf chúng là cần thiết nhằm thực hiện các chức năng của nhà báo. So với sự kiện, vấn đề có cấu trúc phức tạp hơn. Nó bao gồm nhiều mối quan hệ tác động lẫn nhau. Một sự kiện, một tiến trình của xã hội có thể trở thành thành phần cấu trúc của nhiều vấn đề khác nhau. Việc phát hiện và phản ánh các vấn đề của tác phẩm có ý nghĩa to lớn đối với đời sống xã hội, là biểu hiện về chất lượng của tác phẩm báo chí. Vấn đề là đối tượng mà nhà báo hướng tới để phản ánh. Vấn đề càng phức tạp, gay cấn, càng có ý nghĩa xã hội thì càng được công chúng xã hội quan tâm. Để có thể phát hiện vấn đề đòi hỏi nhà báo phải có tri thức rộng, các kỹ năng nghề nghiệp tốt, có sự nhạy cảm chính trị - xã hội và sự say mê, dũng cảm trong hoạt động sáng tạo báo chí. Phạm vi của một vấn đề liên quan trực tiếp đến phạm vi của đề tài. Đó là những vấn đề trong các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hoá... Vấn đề còn có thể là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa các lĩnh vực của đời sống hiện thực, là biểu hiện tập trung, khái quát của một tập hợp các vấn đề cụ thể. Từ đó, khi nghiên cứu phản ánh một vấn đề nào đó cần phân tích toàn diện các bình diện, các tiến trình liên quan, tìm ra mâu thuẫn để có hướng giải quyết tốt hơn. 3.5 Đề tài Là một phạm vi hiện thực trong đó hàm chứa sự kiện, vấn đề được phản ánh vào tác phẩm báo chí. Có hai cách hiểu đối với đề tài trong báo chí là đề tài của một tác phẩm cụ thể và đề tài với tính chất là một lĩnh vực của đời sống hiện thực. Đề tài của một tác phảm cụ thể chính là sự kiện hay vấn đề được phản ánh. Trong trường hợp này, quy mô và phạm vi của đề tài trùng hợp với quy mô và phạm vi của sự kiện, vấn đề. Đề tài theo cách hiểu là một lĩnh vực của đời sống hiện thực, bao gồm các lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, thể thao, du lịch, văn học nghệ thuật... Việc phân chia đề tài tuỳ thuộc vào quy mô, tính chất cũng như mức độ phân công lao động chuyên môn hoá của mỗi toà soạn, đó là một vấn đề mang tính quy luật, phản ánh trình độ phát triển chung của nền báo chí. Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng cho việc hình thành bộ máy tổ chức, phân công, bố trí cán bộ ở các toà soạn. Nói chung, đề tài chỉ giữ vai trò tiền tố trong mối quan hệ với các yếu tố nội dung của tác phẩm báo chí. Về một mặt nào đó, nó gắn với khái niệm đối tượng phản ánh của báo chí. 3.6. Tư tưởng Là lô gíc trừu tượng, là số thành tố của các thành tố nội dung, thể hiện tính mục đích, thúc đẩy và hướng dẫn nhận thức của công chúng. Tư tưởng trong tác phẩm bị chi phối bởi hai phía: Phía thứ nhất là ý đồ, mục đích, tư tưởng, chính kiến của nhà báo hay cơ quan báo chí. Phía thứ hai là quy mô, tính chất, ý nghĩa của vấn đề, sự kiện. Bản thân tư tưởng trong tác phẩm báo chí mang tính phổ biến, có ý nghĩa đối với đời sống xã hội. Mặc dù tư tưởng thể hiện thái độ, lập trường của tác giả, bị chi phối bởi quan điểm chính trị, xã hội của nhà báo, song không thể tồn tại bên ngoài các sự kiện khách quan. Trong tác phẩm báo chí, tư tưởng được thể hiện trong các tư tưởng bộ phận hoặc các ý nghĩa phát sinh của tác phẩm. Và nó là thông điệp chuyển tới người đọc, người nghe, tác động vào nhận thức của công chúng tạo nên hiệu quả của tác phẩm báo chí. 4. tính tất yếu phải đổi mới nội dung thông tin báo chí trong cơ chế thị trường 4.1 Khái niệm cơ chế thị trường Cơ chế thị trường là để vận hành nền kinh tế thị trường. Chính quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế hàng hoá giản đơn đòi hỏi phải sinh ra cơ chế thị trường và ngược lại, cơ chế thị trường tác động và thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển đến trình độ cao là kinh tế thị trường. Chính trong quá trình vận động đó, cơ chế thị trường trở thành một bộ phận quan trọng có tính đặc trưng của kinh tế thị trường. ở đây, cũng cần nói thêm rằng công cụ (hay phương tiện) số một của cơ chế thị trường là tiền tệ. 4.2. Tính tất yếu phải đổi mới nội dung thông tin Xã hội luôn vận động, biến đổi không ngừng muốn theo kịp với thời đại bắt buộc của chúng ta phải đổi mới từ tư duy nhận thức, từ việc làm cụ thể đến cả cách sống, cách làm việc... Bốn căn cứ cơ bản sau dẫn đến sự đổi mới nội dung thông tin của báo chí trong cơ chế thị trường. 4.2.1. Đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng Như chúng ta đã biết công chúng là những độc giả tiếp nhận cuối cùng một sản phẩm báo chí khi nó được hoàn thành đưa ra thị trường. Hơn thế nữa ở họ các vị trí, giai, tầng, bậc khác nhau của xã hội, từ giới tính, trình độ học vấn, tuổi tác, nơi cư trú, quan hệ xã hội ... Vì vậy báo chí phải đổi mới cho phù hợp, đáp ứng được nhu cầu thông tin của công chúng. Nếu như một tờ báo nào đó không đáp ứng được nhu cầu thông tin của công chúng, đi ngược lại với lợi ích của công chúng thì ngay lập tức nếu không có sự điều chỉnh thay đổi, thì tờ báo đó tự nó sẽ bị diệt vong. Bởi đó, báo chí phải là những cơ quan đi đầu định hướng dư luận, định hướng thông tin, nắm bắt kịp thời từ phía công chúng. 4.2.2. Phù hợp với đường lối của Đảng Tháng 12 năm 1986 Đại hội Đảng lần thứ VIII đã vạch ra kế hoạch đổi mới một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực. Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân cũng không nằm ngoài phạm vi đổi mới. Trước xu hướng vận động và phát triển của đất nước, báo chí nước ta từng bước đổi mới cho phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Với khẩu hiệu “ Đổi mới mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới đất nước” từ 1986 đến nay, báo chí đã có sự đổi mới rõ rệt, nâng cao chất lượng nội dung thông tin, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và “khó tính” của công chúng, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từng bước đưa đất nước sánh ngang với các nước trên thế giới. 4.2.3. Phù hợp với nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã tạo ra một môi trường báo chí gồm nhiều lĩnh vực phong phú, đa dạng, làm cho báo chí nước ta phát triển một cách vượt bậc và đầy hứa hẹn. Trong tác động, hoạt động của nhà báo cũng sôi động hẳn lên. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay xu hướng cơ quan báo chí là tự hạch toán kinh doanh ngày càng phát triển. Để tồn tại được thì cơ quan báo chí phải thu hút độc giả xem và mua báo mình. Một nhà báo nổi tiếng đã từng nói: " Một tờ báo phát triển khi và chỉ khi độc giả tự tìm đến sạp báo và hỏi mua tờ báo đó". Từ cơ sở đó đã đặt ra yêu cầu cho cơ quan báo chí là phải đổi mới nội dung thông tin phù hợp với nền kinh tế thị trường. 4.2.4. Phù hợp với xu hướng phát triển báo chí Quốc tế Trong xu hướng phát triển của báo chí toàn cầu thì nội dung thông tin ngày càng được nâng cao để đáp ứng nhu cầu thông tin của độc giả. Vì vậy để theo kịp sự phát triển của báo chí Quốc tế thì mỗi cơ quan báo chí phải tự tiến hành đổi mới nội dung thông tin, để thích ứng kịp thời. Đó là điều kiện để đảm bảo cho sự phát triển và cũng là một yêu cầu đặt ra cho báo chí trong thời kỳ mới. Đổi mới nội dung thông tin sẽ không bị tụt hậu so với các nước trên thế giới. 4.3. Xu hướng đổi mới thông tin trên báo chí hiện nay Ngày nay, con người cần đến thông tin rất lớn, khi trình độ dân trí được nâng lên nhiều chiều thì nhu cầu thông tin đòi hỏi phải cao. Hơn nữa phương tiện tiếp nhận thông tin của họ cũng trở nên phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Trước xu hướng đó đòi hỏi cơ quan báo chí phải đa dạng hoá các lĩnh vực làm thông tin ngày càng phòng phú hơn, phát huy ưu điểm của các thể loại như: tin, phỏng vấn, phóng sự... chất lượng thông tin ngày càng nâng cao, viết càng ngắn gọn thì chuyển tải thông tin một cách thuyết phục đến với công chúng. Ngoài ra xu hướng đổi mới thông tin trong giai đoạn hiện nay là thông tin phải dân chủ khách quan, cho phép công chúng có thể bình luận, đánh giá, là diễn đàn của nhân dân để n
Luận văn liên quan