Trong một xu thế phát triển kinh tế mới các năm gần đây của các quốc gia, thì mối quan tâm phát triển kinh tế biển đang được chú trọng và quan tâm, mạnh về biển. Nhưng chính vì những lợi ích to lớn từ biển cả như thế mà đã có những xung dột giữa quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các quốc gia, sự không dung hòa lợi ích đã làm nảy sinh một vấn đề cần phải ra đời 1 vùng đặc quyền kinh tế mang 1 quy chế pháp lý cụ thể đề dung hòa được lợi ích về khai thác đánh bắt thủ hai sản hay quyền của quốc gia ven biển và các quốc gia khác . Và cụ thể qua sự thỏa thuận thống nhất ý kiến thì cuối cùng vùng đặc quyền kinh tế đã ra đời và được quy ước cụ thể trong “Công ước của liên hợp quốc về luật biển (Ký ngày 10/12/1982 tại Montego Bay có hiệu lực ngày 16/11/19940)”.
9 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia trong quá trình hoàn thiện về cách xác định và quy chế pháp lí của vùng đặc quyền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong một xu thế phát triển kinh tế mới các năm gần đây của các quốc gia, thì mối quan tâm phát triển kinh tế biển đang được chú trọng và quan tâm, mạnh về biển. Nhưng chính vì những lợi ích to lớn từ biển cả như thế mà đã có những xung dột giữa quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các quốc gia, sự không dung hòa lợi ích đã làm nảy sinh một vấn đề cần phải ra đời 1 vùng đặc quyền kinh tế mang 1 quy chế pháp lý cụ thể đề dung hòa được lợi ích về khai thác đánh bắt thủ hai sản hay quyền của quốc gia ven biển và các quốc gia khác…. Và cụ thể qua sự thỏa thuận thống nhất ý kiến thì cuối cùng vùng đặc quyền kinh tế đã ra đời và được quy ước cụ thể trong “Công ước của liên hợp quốc về luật biển (Ký ngày 10/12/1982 tại Montego Bay có hiệu lực ngày 16/11/19940)”.
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Khái niệm: Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần V –Vùng đặc quyền kinh tế theo công ước luật biển 1982, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền cũng như các quyền tự do của các quốc gia đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh. Vùng biển này có chiều rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dung để tính chiều rộng lãnh hải (trong đó có 188 hải lý thuần túy mang tính chất của cùng đặc quyền kinh tế). Vùng này chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua tuyên bố đơn phương hay thỏa thuận của các quốc gia hữu quan, chứ nó không mặc nhiên tồn tại.
A: Sự hình thành-Lợi ích giữa các quốc gia được dung hòa.
1. Hình Thành:
Sau Thế chiến thứ hai, khoảng chiều rộng lãnh hải ba hải lý đã trở nên lỗi thời khi mà nhiều nước ven biển kiên quyết đấu tranh vì những quyền lợi kinh tế, an ninh để mở rộng lãnh hải. Tuy nhiên đánh dấu cho sự thay đổi cho sau này bắt nguồn từ tuyên bố của Tổng thống Truman về nghề đánh cá ven bờ trong 1 số vùng biển bên ngoài lãnh hải 3 hải lý, nước Mỹ đề nghị thiết lập một “ vùng bảo tồn 1 phần nhất định biển cả kế cận với bờ biển Hoa Kỳ nơi các hoạt động đánh cá đã và đang được phát triển trong tương lai tới một mức độ quan trọng”. Và tiếp sau việc tuyên bố này là 1 loạt các tuyên bố, các yêu sách khác liên quan, các xung đột liên quan đến lợi ích giữa các quốc gia và cuối cùng kết quả là sự ra đời của 1 vùng mang tên Đặc Quyền Qinh Tế dung hòa lợi ích của các bên.
Hội nghị luật biển lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc, kéo dài 9 năm( 1973-1982) đại diện có thẩm quyền của 117 quốc gia (bao gồm cả Việt Nam). Hội nghị dùng một quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số. Công ước Luật biển 1982 ra đời dưới sự thỏa thuận, ký kết của các quốc gia. Thiết lập vùng đặc quyền kinh tế với chiều rộng 200 hải lí, góp phần làm thay đổi trật tự kinh tế quốc tế trên biển những thập kỷ cuối thế kỉ XX.
Trong Công ước 1958 thì dường như không tìm thấy khái niệm tương đồng với khái niệm vùng đặc quyền kinh tế như đã được thừa nhận trong công ước 1982. Hình thành về mặt truyền thống là con đường pháp điển hóa các tập quán. Hình thành về mặt thực tiễn, bắt nguồn từ hành vi mang tính chất đơn phương, khởi đầu tuyên bố của tổng thống Mỹ Truman đưa ra một tuyên bố về nghề cá ven bờ trong trong 1 số vùng biển cả.
2. Lợi ích dung hòa giữa các quốc gia khi hình thành qua thỏa thuận:
Việc hình thành vùng đặc quyền kinh tế còn được giải thích từ 1 điểm mang tính chất cốt lõi là sự không thống nhất của nhóm nước về nội dung các quyền trong vùng nước này. (Các nước thứ 3 nhất là các nước Châu Mỹ la tinh chủ trương lãnh hải hóa vùng nước ven bờ có bề rộng 200 hải lý, dưới tên gọi vùng biển di sản, lãnh hải di sản, loại bỏ quyền tự do hang hải và các quyền tự do biển cả khác, còn các cường quốc hang hải chủ trương hạn chế tối đa sự mở rộng quyền lực của quốc gia ven biển ra ngoài biển cả nhằm bảo vệ các quyền tự do biển cả truyền thống. Một số nước khác cũng yêu sách về một vùng đánh cá đặc quyền) Theo như quan niệm ban đầu tồn tại vùng đặc quyền kinh tế là để tạo ra một hình thức có giới hạn đối với cột nước và thềm lục địa, nhưng không bao hàm quyền kiểm soát đối với giao thông đường biển, đường hang không và đặc biệt không có ý nhằm mở rộng lãnh hải của nước ven biển: Liên Xô, Mỹ và một số nước tỏ ra ngại về việc khái niệm vùng đặc quyền kinh tế khi đã trở nên phỏ biến sẽ dẫn đến hệ quả mở rộng ranh giới lãnh hải. Các nước Á- Phi, chính sách mở rộng biển thể hiện mức độ mềm dẻo nhất định, mang tính chất cân bằng 2 cực.
Để đi đến 1 lợi ích chung phù hợp cân bằng giữa các bên. Dưới sự thỏa thận kí kết Công ước 1982 ra đời là kết quả của sự nhượng bộ lẫn nhau giữa trường phái quan niệm về bảo tồn các vùng biển truyền thống của cộng đồng quốc tế với trường phái tiến ra biển của các quốc gia ven biển. Hàng loạt quốc gia ven biển kể cả những nước không tham gia công ước 1982 cũng lần lượt đưa ra tuyên bố yếu sách về vùng đặc quyền kinh tế của mình.
- Sự ra đời của vùng của 1 vùng biển có quy chế pháp lý mới phục vụ nhu cầu sử dụng và khai thác biển của các quốc gia, vùng biển mà quốc gia ven biển có quyền chủ quyền cũng như quyền tài phán. Thể hiên sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia.
B: Sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia trong quá trình hoàn thiện về cách xác định và quy chế pháp lí của vùng đặc quyền kinh tế.
Điểm đặc trưng của vùng đặc quyền kinh tế là trong khi dành cho họ nước ven biển những chủ quyền thì luật biển quốc tế cũng đảm bảo để các quốc gia khác( trong đó bao gồm cả quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có được những quyền nhất định, bao gồm chủ yếu nhóm quyền tự do biển cả truyền thống( trừ quyền đánh cá truyền thống) và quyền tham gia khái thác tài nguyên sinh vật. Sự cân bằng này song hành giải quyết hai vấn đề đặt ra trong quy chế của vùng đặc quyền kinh tế, đó là: mở rộng quyền chủ quyền của nước ven bờ 1 cách có giới hạn đề đảm bảo cho lợi ích chính đáng của nước ven biển và đảm bảo tính ổn định tương đối của biển cả và vùng, là nơi mà lợi ích chung của cộng đồng cần được tôn trọng.
1. Quá trình hoàn thiện cách xác định, quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế.
Với bề rộng tối đa là 200 hải lí ( rộng 200 hải lý bởi sau tuyên bố Truman mộy số nước có dòng chảy Humbolt cách bờ khoảng 200 hải lý, ngoài khơi Chile, Peru, Equateur rất giàu hải sản . Vì vậy các nước này đã yêu sách vùng lãnh hải rộng trùm nên dòng chảy. Yêu sách bề rộng 200 hải lý có tính huyền thoại này đã trở thành quy tắc mang tính thế giới) kể từ đường cơ sở trong đó có 188 hải lí thuần túy mang tính chất của vùng đặc quyền kinh tế. Thực tiễn trong khoảng thời gian từ năm 1972-1976 có 42 vùng đặc quyền kinh tế được thiết lập, từ năm 1979-1985 có 30 vùng đặc quyền kinh tế nữa được thiết lập và 22 quốc gia tuyên bố vùng đánh cá, đến năm 1996 có 96 vùng đặcq uyền kinh tế rộng 200 hải lý, 14 vùng đánh cá 200 hải lý và 4 vùng đánh cá có bề rộng ít hơn 200 hải lý. Khái niệm về vùng đặc quyền kinh tế đã trở thành khái niệm có giá trị tập quán trước khi công ước luật biển 1982 có hiệu lực.
Có thể nhận thấy, đặc quyền kinh tế là vùng biển có bản chất pháp lí hỗn hợp, bởi trên đó vừa tồn tại quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, vừa tồn tại quyền tự do biển cả được thừa nhận trong công ước quốc tế. Chính bản chất này đã tạo nên một vùng biển mang tính chất đặc thù, sự đặc thù thể hiện ở hai phương diện, tạo sự tương đồng giữa các nhóm lợi ích khác nhau ngay ở trong vùng đặc quyền kinh tế.
Thể hiện đặc trưng của vùng đặc quyền kinh tế là nhóm lợi ích có liên quan đến nước ven biển, nhằm dành cho nước này sự thụ hưởng đặc quyền về khai thác tài nguyên của vùng đặc quyền kinh tế. Đặc quyền này cho thấy sự khác biệt giữa vùng đặc quyền kinh tế và vùng đánh cá trong công ước 1958 là vùng không xác định được bề rộng lãnh hải( trong khi vùng đặc quyền kinh tế được thừa nhận rõ là không quá 200 hải lí kể từ đường cơ sở), vùng đánh cá giới hạn quyền lực của quốc gia ven biển đối với tài nguyên sinh vật trong lòng cột nước của vùng. Sự ghi nhận của công ước 1958 về vùng đánh cá chủ yếu là nhằm khai thác tài nguyên sinh vật và quyền này trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi quyền đánh cá truyền thống là quyền tự do đánh cá của tất cả các quốc gia bên ngoài lãnh hải, trong khi tiến hành các hoạt động đánh cá ở biển cả, các tàu đánh cá không phải tuân thủ pháp luật của bất kì quốc gia nào, trừ pháp luật mà tàu đó mang cờ. Những tuyên bố về vùng biển rộng 200 hải lý mang tính chất khác nhau có quốc gia tuyên bố đó là lãnh hải, vùng biển di sản..đã gây ra nhiều xung đột bởi những cách xác định mang tính chất là đem tất cả lợi ích cho quốc gia ven biển 1 cách quá lớn mà loại bỏ hết quyền của các quốc gia khác. Trong khi vùng đặc quyền kinh tế cùng với sự đòi hỏi về lợi ích về tài nguyên sinh vật..với bề rộng 200 hải lý dưới sự thỏa thận kí kết của nhiều quốc gia để đi đến một lợi ích công bằng cho các bên. Quyền tài phán được thiết lập trong vùng đặc quyền kinh tế theo công ước 1982 là đảm bảo quan trọng để có sự mở rộng thực sự quyền chủ quyền của quốc gia ven biển mà không đơn thuẩn là sự ưu tiên mang tính hình thức như vùng đánh cá trong công ước trước đây.
2: (Quyền chủ quyền) -Tài nguyên và lợi ích.
Vấn đề tài nguyên cá là nội dung quan trọng của quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế nhiều loài cá di chuyển qua các vùng biển nằm dưới quyền tài phán của nhiều quốc gia, rất ít loài cá sống cố định tại 1 vùng biển đặc tính này dẫn đến vấn đề pháp lý. Thứ nhất; nếu quốc gia đánh bắt quá mức các loại cá trong vùng đặc quyền kinh tế của mình thì sẽ tác động đến sản luợng đánh bắt cá của các quốc gia liên quan. Thứ hai; Các quốc gia liên quan có nghĩa vụ hợp tác trong việc bảo tồn và phát triển các đàn cá có đặc tính nêu trên.
-Việc xác định tổng lượng tài nguyên cá được phép khai thác vì có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế ( Điều 61 công ước 1982: Bảo tồn các nguồn lợi sinh vật “Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình….” Điều 62 của công ước 1982 Khai thác tài nguyên sinh vật; khoản 2 điều này có ghi “Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác và theo đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt...”). Việc quốc gia ven biển phải thực hiện phân bổ lượng cá thừa (khi đã công bố lượng cá thừa) 1 cách thiện chí vì không thể vừa công bố có cá thừa lại vừa ban hành các quy định để loại bỏ việc tiếp cận nguồn cá thừa của nước ngoài.
Quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế cũng đề cập đến lợi ích của các quốc gia không có biển và quốc gia bất lợi về địa lý ( Điều 69 CƯ 1982 Quyền của quốc gia không có biển. Điều 70 CƯ 1982 Quyền của quốc gia bất lợi về địa lý ). Những quyền này của quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý là quyền pháp lý nhưng lại không có tính chất đương nhiên. Trong vùng đặc quyền kinh tế của cả các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển, thì các quốc gia phát triển không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý sẽ chỉ có quyền “tham gia khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia phát triển ở trong cùng phân khu vực hay khu vực” (điều 64 khoản 4) mà thôi. Những trường hợp không có nguồn cá thừa, nhưng việc đánh bắt toàn bộ khối lượng cho phép thực hiện trong sự hợp tác với quốc gia khác thì quốc gia ven biển phải có những biện pháp thích hợp cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển hay không thuận lợi về mặt địa lí tham gia một cách thích hợp vào các xí nghiệp chung hay những thỏa thuận tương tự khác với những điều kiện thỏa đáng( Điều 69 khoản 3, Điều 70 khoản 4) Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa đặc quyền khai thác tài nguyên sinh vật của nước ven biển và cá vấn đề cân bằng lợi ích của các quôc gia khác ở vùng biển gần bờ này.
Đối với tài nguyên không sinh vật ( tài nguyên nước, khoáng sản, tài nguyên du lịch...). Cũng như đặc quyền đối với tài nguyên sinh vật, đặc quyền của quốc gia ven biển có thể được chia sẻ với quốc gia khác. Quốc gia khác có thể được phép xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ven biển nhưng tuân theo các quy định và luật lệ của nước ven biển.
Với công ước 1982 có nhiều điểm trội hơn, khi này các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế không chia sẻ đối với các tài nguyên sinh vật và không sinh vật và có 1 số quyền tài phán nhất định trong khi vẫn tôn trọng các quyền khác của quốc gia khác trong các lĩnh vực khác. Tôn trọng sự thỏa thuận chia sẻ lợi ích nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển với các nước hữu quan.
Vấn đề cân bằng lợi ích của quốc gia khác trong điều kiện chấp nhận các đặc quyền của nước ven biển: Giới hạn cần thiết đối với xu thế mở rộng chủ quyền nước ven biển để không ảnh hưởng đến các quyền tự do truyền thống trong biển cả; Đảm bảo ngăn chặn nguy cơ tiềm tàng từ việc lạm dụng đặc quyền khai thác tài nguyên sinh vật của nước ven biển làm ảnh hưởng đến tài nguyên sịnh vật của nước liên quan; Bảo đảm sự khai thác vùng đặc quyền kinh tế một cách hiệu quả theo hướng tôn trọng đặc quyền của nươc ven biển nhưng có cơ chế hợp tác quốc tế đẻ chia xẻ quyền lợi giữa các quốc gia trong vùng đặc quyền kinh tế.
3: Quyền tài phán của quốc gia ven biển dung hòa với lợi ích của các quốc gia khác.
Theo như công ước 1982 xây dựng các đảo nhân tạo, các thiết bị công trình , về quyền nghiên cứu, quản lý và tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển chống lại các ô nhiễm từ các nguồn khác nhau, tuy nhiên so với các vùng nội thủy hay lãnh hải thì quyền tài phán chỉ là thực thi các quyền chủ quyền, sự giới hạn thẩm quyền tài pháncủa nước ven biển trong lĩnh vực nêu trên nhằm loại bỏ những ứng xử không phù hợp của nước ven biển đối với quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế gây ảnh hưởng đến quyền tự do và lợi ích của các nước khác trong vùng này, từ đó làm biến dạng bản chất pháp lý của của nhóm vùng biển mang tính chất quyền chủ quyền.
Đối với các quốc gia khác vẫn tồn hải: Được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không. Được tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Khi đặt đường ống phải thông báo và thỏa thuận với quốc gia ven biển. Được tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế.
Vấn đề lợi ích chung vẫn hiện diện, được hưởng quyền nhưng không làm phượng hại đến lợi ích của quôc sgia khác có liên quan. VD như khoản 1 và 2 Điều 38 công ước này “…việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng…” trách gây hiểu nhầm hoặc vì mục đích khác. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế. ( Khoản 7 điều 60 CƯ 1982). Nước ven biển phải có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo cho tàu thuyền nước ngoài được hưởng các quyền tự do nêu trên trong vùng đặc quyền kinh tế, và không được ảnh hưởng đến môi truờng biển không gây ra ô nhiễm ví dụ tàu thuyền nước ngoài khi đi qua vùng đặc quyền kinh tế gây ô nhiễm môi trường biển vẫn có thể bị xét xử theo luật của quốc gia ven biển… Lợi ích được đảm bảo trên cơ sở vì các bên đều có lợi, lợi ích chung được đảm bảo từ cả hai phía tránh việc hành vi của 1 quốc gia này làm ảnh hưởng đến việc được hưởng quyền và lợi ích của quốc gia khác.
Vấn đề lợi ích giữa các bên được thể hiển ngay cả Cơ sở giải quyết các tranh chấp trong trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền về kinh tế Trong công ước 1982 ĐIỀU 59.”… sự xung đột này phải được giải quyết trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có tính đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh chấp và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế”. Để đảm bảo tính công bằng và quyền lợi giữa các quốc gia tránh xảy ra xung đột về lợi ích, việc hạn chế về chuyển giao quyền cho quốc gia thứ 3 cũng được quy định và ghi nhận tại điều Điềt 72.
III: KẾT LUẬN.
Với những quy chế pháp lý mới cùng cách xác định rõ ràng, hoàn thiện hơn của vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong công ước 1982 đã thể hiện rõ được sự dung hòa lợi ích đảm bảo cho quốc gia ven biển được hưởng các quyền của mình và đồng thời các quốc gia khác cũng được hưởng các quyền lợi nhất định, dung hòa được cả 2 bên tránh những cuộc xung đột về lợi ích như thời gian trước, mở ra 1 thời kì mới của kinh tế biển trên cơ sở hợp tác, hòa bình cùng có lợi.
MỤC LỤC.
I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
A: Sự hình thành-Lợi ích giữa các quốc gia được dung hòa.
1. Hình Thành:
2. Lợi ích dung hòa giữa các quốc gia khi hình thành qua thỏa thuận:
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
B: Sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia trong quá trình hoàn thiện về cách xác định và quy chế pháp lí của vùng đặc quyền kinh tế.
1. Quá trình hoàn thiện cách xác định, quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế.
2: (Quyền chủ quyền)-Tài nguyên và lợi ích.
3: Quyền tài phán của quốc gia ven biển dung hòa với lợi ích của các quốc gia khác.
III: KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1, Giáo trình Luật Quốc Tế ( Trường Đại Học Luật Hà Nội).
2, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
3, Luật Biển Quốc Tế Hiện Đại.