Thái Nguyên là một tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam , tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và là
tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là một trung tâm kinh
tế - xã hội lớn của khu vực Đông Bắc hay cả Vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997 với việc tách tỉnh Bắc Thái thành hai
tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở
thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội
43 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng phần mềm geospatial toolkit đánh giá tiềm năng sinh khối tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN
SỬ DỤNG PHẦN MỀM GEOSPATIAL TOOLKIT ĐÁNH
GIÁ TIỀM NĂNG SINH KHỐI TỈNH THÁI NGUYÊN
Phần 1: Tình hình kinh tế xã hôi của tỉnh Thái Nguyên:
1.1. Tình hình kinh tế - xã hội:
1.1.1. Giới thiệu chung về Tỉnh Thái Nguyên:
Thái Nguyên là một tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và là
tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là một trung tâm kinh
tế - xã hội lớn của khu vực Đông Bắc hay cả Vùng trung du và miền núi phía Bắc.
Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997 với việc tách tỉnh Bắc Thái thành hai
tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở
thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội
1.1.1.1 Địa lý:
a. Vị trí:
Tỉnh Thái Nguyên có diện tích 3.562,82 km² phía bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc
Kạn, phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía đông giáp với các
tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái
Nguyên trung bình cách sân bay quốc tế Nội Bài50 km, cách biên giới Trung Quốc
200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km. Với vị trí địa lý
là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,giáo dục của khu Việt Bắc nói
riêng, của vùng trung du miền núi phía Bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ
giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.
b. Địa chất:
Khu vực tây bắc Thái Nguyên bao gồm huyện Định Hóa và các xã phía tây của
hai huyện Phú Lương, Đại Từ có lịch sử hình thành sớm nhất, thuộc chu kỳ kiến
tạo sơn Caledonia bắt đầu cách đây 480 triệu năm và được hình thành xong
trong đại cổ sinh cách đây 225 triệu năm. Các khu vực núi còn lại của Thái Nguyên
có lịch sử địa chất trẻ hơn. Phần lớn lãnh thổ Thái Nguyên có lịch sử hình thành
suốt trung sinh (bắt đầu từ cách đây 240 triệu năm và kết thúc cách đây 67 triệu
năm, kéo dài trong khảng 173 triệu năm).
Sau khi được hình thành xong (cách đây 67 triệu năm), lãnh thổ Thái Nguyên
ngày nay tồn tại dưới chế độ lục địa liên tục 50 triệu năm. Với thời gian này, địa
hình Thái Nguyên ngày nay được san bằng và trở thành bình nguyên. Đến kiến tạo
sơn Hymalaya cách đây khoảng 25 triệu năm, do vận động nâng lên mãnh liệt,
Thái Nguyên cũng được nâng cao từ 200 đến 500m, làm cho địa hình trẻ lại.
Những miền được nâng cao có địa hình bị cắt xẻ, các vật liệu trầm tích trẻ, mềm bị
ngoại lực bóc mòn, các núi cổ được cấu tạo bằng nham thạch cổ hơn, cứng hơn lại
lộ ra, tái lập lại địa hình như lúc mới hình thành xong (cuối trung sinh).
Hang Phượng Hoàng trên địa bàn Huyện Võ Nhai
c. Địa hình:
Phía tây bắc Thái Nguyên có thung lũng Chợ Chu bao gồm nhiều cánh đồng và
những thung lũng nhỏ. Giữa Đồn Đủ và Cổ Lương là một cánh đồng giáp với cao
nguyên Trúc Thanh và Độ Tranh gồm nhiều đồi núi lan tới tận khu đồng lầy Phúc
Linh.
Phía tây nam có dãy Tam Đảo dọc theo cao nguyên Văn Lang và cánh đồng Đại
Từ. Tam Đảo có đỉnh cao nhất 1.591 m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo
hướng tây bắc-đông nam. Ngoài dãy núi trên còn có dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc
Kạn chạy theo hướng đông bắc-tây nam đến Võ Nhaivà dãy núi Bắc Sơn cũng
chạy theo hướng tây bắc-đông nam. Cả ba dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc
Sơn đều là những dãy núi cao che chắn gió mùa đông bắc.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình lại không phức tạp
lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi của Thái Nguyên
Thái Nguyên có nhiều dãy
núi cao chạy theo hướng bắc-
nam và thấp dần xuống phía
nam. Cấu trúc vùng núi phía
Bắc chủ yếu là đa phong hóa
mạnh, tạo thành nhiều hang
động và thung lũng nhỏ.
Phía bắc Thái Nguyên gồm rừng
núi và đồng lầy. Về phía đông
có những dãy núi cao nằm giữa
những ngọn núi đá vôi ở phố
Bình Gia. Về phía đông bắc, có
cao nguyên Vũ Phái được giới
hạn bởi những dãy núi đá vôi và
Tam Đảo là dãy núi tạo thành ranh giới giữa tỉnh
Thái Nguyên và hai tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang
cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nói chung so với các
tỉnh trung du miền núi khác.
d. Thủy văn:
Sông Cầu là con sông chính của tỉnh và gần như chia Thái Nguyên ra thành hai
nửa bằng nhau theo chiều bắc nam. Sông bắt đầu chảy vào Thái Nguyên từ xã Văn
Lăng, huyện Đồng Hỷ và đến địa bàn xã Nga My, huyện Phú Bình, sông trở thành
ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang và sau đó hoàn toàn ra
khỏi địa bàn tỉnh ở xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên. Ngoài ra Thái Nguyên còn có
một số sông suối khác nhưng hầu hết đều là phụ lưu của sông Cầu. Trong đó đáng
kể nhất là sông Đu, sông Nghinh Tường và sông Công. Các sông tại Thái Nguyên
không thuộc lưu vực sông Cầu là sông Rang và các chi lưu của nó tại huyện Võ
Nhai, sông này chảy sang huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn và thuộc lưu vực sông
Thương. Ngoài ra, một phần diện tích nhỏ của huyện Định Hóa thuộc thượng lưu
sông Đáy. Ô nhiễm nguồn nước là một vấn đề đáng quan tâm, nhất là tình trạng ô
nhiễm trên sông Cầu.
Ngoài đập sông Cầu, Thái Nguyên còn xây dựng một hệ thống kênh đào nhân
tạo dài 52 km ở phía đông nam của tỉnh với tên gọi là Sông Máng, nối liền sông
Cầu với sông Thương để giúp việc giao thông đường thủy và dẫn nước vào đồng
ruộng được dễ dàng.
Thái Nguyên không có nhiều hồ, và nổi bật trong đó là Hồ Núi Cốc, đây là hồ
nhân tạo được hình thành do việc chặn dòng sông Công. Hồ có độ sâu 35 m và
diện tích mặt hồ rộng 25 km², dung tích của hồ ước tính từ 160 triệu - 200 triệu m³.
Hồ được tạo ra nhằm các mục đích cung cấp nước, thoát lũ cho sông Cầu và du
lịch. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du
lịch trọng điểm quốc gia.
e. Cơ cấu đất đai:
Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm các loại
sau:
Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200 m, hình
thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích.
Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu
nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để
trồng cây ăn quả, một phần cây lương thực cho nhân dân vùng cao.
Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát
kết, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất
xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ,
Phú Lương... ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200
phù hợp đối với cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là
cây chè (trà) (một đặc sản của Thái Nguyên)
Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần
phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác
động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán...) khó
khăn cho việc canh tác.
Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm
69,22% diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha
(chiếm 30,78% diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714
ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng
sản xuất lâm nghiệp.
f. Khí hậu:
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái
Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ
Nhai.
Vùng ấm gồm các huyện: Đại Từ, Thành phố Thái Nguyên, Đồng Hỷ, Phú
Bình, Phổ Yên và Thị xã Sông Công.
Nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là 25 °C; chênh lệch giữa tháng nóng nhất
(tháng 6: 28,9 °C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tại thành phố
Thái Nguyên, nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng được ghi nhận lần lượt là 41,5°C
và 3°C.[8] Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân
phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa
rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng
8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho
phát triển ngành nông, lâm nghiệp.
1.1.1.2 Lịch sử phát triển:
Từ xa xưa, Thái Nguyên đã là nơi sinh sống của người Việt cổ. Trên địa
bàn hang Ốc thuộc xã Bình Long đã tìm được dấu tích của người tiền sử có niên
đại ít nhất cách đây từ 7000 đến 8000 năm với những vỏ ốc bị chặt đuôi, xương
động vật là những tàn tích thức ăn của người xưa. Từ những năm 1980, cũng tại
huyện Võ Nhai, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra dấu tích của người Việt cổ tại khu
vực Mái Đá Ngườm thuộc xã Thần Sa.]Hàng chục ngàn hiện vật từ các hang
Phiêng Tung, Mái đá Hạ Sơn I, Hạ Sơn II, hang Thắm Choong, Nà Ngùn và Mái
Đá Ranh…ở Thần Sa, với những công cụ cuội được ghè đẽo như: Mảnh tước, rìu
tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa, công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ
hình sừng bò... Đặc biệt. các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 bộ xương người cổ được
mai táng ở Mái Đá Ngườm, xóm Kim Sơn. Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan
trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa với 4 địa tầng văn hóa khảo cổ,
trong đó tầng thứ tư tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ.
Thái Nguyên xưa thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Vào
thế kỷ thứ III, Thái Nguyên thuộc huyện Vũ Định, sau đổi tên thành huyện Long
Bình. Có những ý kiến cho rằng quê gốc của Lý Nam Đế là ở thôn Cổ Pháp, xã
Tiên Phong, huyện Phổ Yên, ông tu tại chùa Hương Ấp đến năm 13 tuổi thì theo
Phổ Tổ thiền sư về tu hành tại chùa Giang Xá thuộc Hoài Đức, Hà Nội. Đến thế kỷ
thứ VII được gọi là huyện Vũ Bình, rồi thành châu Thái Nguyên dưới đời nhà Lý.
Cuối thế kỷ 14, châu được đổi thành trấn, năm 1407 đổi lại thành châu, sang 1408
thì trở thành phủ, năm 1677 trở thành trấn. Mãi đến năm 1902, triều đình mới cử
quan chức trấn nhiệm Thái Nguyên, đặt doanh sở ở Ngọc Hà.
Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên đã trở thành phên giậu trực
tiếp che chở phía Bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Tống năm 1076-1077, phần đất phía Nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng
tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan quân nhà Lý với Nhà
Tống. Đầu thế kỷ 15, nhà Minh đem quân sang Việt Nam, dân chúng Thái Nguyên
lại liên tiếp đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, người huyện Đại Từ,
ông cùng cha và anh rể đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Vào thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghĩa nông
dân chống lại quan lại phong kiến. Người dân Thái Nguyên từng tham gia các cuộc
khởi nghĩa của Dương Đình Cúc, Nông Văn Vân.
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, đất Thái Nguyên là địa bàn hoạt động thường
xuyên, là hậu cứ của Hoàng Hoa Thám. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do Trịnh
Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến đã nổ ra và đêm 30-8-1917, nghĩa quân đã chiếm
được tỉnh lị. Tuy nhiên sau đó thực dân Pháp đem viện binh từ Hà Nội lên tấn công
khiến nghĩa quân phải bỏ Thái Nguyên và rút về Vĩnh Yên rồi bị dập tắt sau đó.
Tỉnh Thái Nguyên được thành lập vào năm Minh Mệnh thứ 12 (ngày mùng 1 tháng
10 âm lịch, tức ngày 04-11-1831), tỉnh Thái Nguyên khi đó giáp với các tỉnh:
Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn Tây.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều Ủy viên Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động,
phát triển lực lượng ở Thái Nguyên. Năm 1947, Hồ Chí Minh đã tới Thái Nguyên
và lãnh đạo cuộc Kháng chiến chống Pháp từ căn cứ chính tại ATK Định Hóa.
Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, chiến dịch Đông-Xuân
1953-1954 cũng như quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và hàng loạt
sự kiện quan trọng khác.
Từ năm 1956 đến 1975, Thái Nguyên là một tỉnh thuộc Khu tự trị Việt
Bắc và thành phố Thái Nguyên là thủ phủ của khu tự trị này. Trước đó, năm 1890,
chính quyền Pháp chia tỉnh Thái Nguyên thời nhà Nguyễn thành hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sáp
nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Tỉnh Bắc Tháicuối
cùng lại tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn như ngày nay vào năm 1997.
1.1.1.3 Đơn vị hành chính:
Tỉnh Thái Nguyên được chia thành 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện. Các đơn vị
hành chính này được chia tiếp thành 180 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có
125 xã vùng cao và miền núi, còn lại là các xã đồng bằng và trung du. Cũng như
các tỉnh và thành khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên do
người dân tỉnh bầu nên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh. Hội đồng nhân dân
tỉnh Thái Nguyên hiện nay, nhiệm kỳ 2011–2016 gồm 70 đại biểu, chủ tịch là
ông Vũ Hồng Bắc. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên có trụ sở tại số 18 đường
Nha Trang, Chủ tịch là ông Dương Ngọc Long Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên đang
có kế hoạch xây dựng trung tâm hành chính mới ở phía tây thành phố Thái
Nguyên.Theo kế hoạch của chính quyền tỉnh Thái Nguyên, đến năm 2013, thị xã
Núi Cốc sẽ được thành lập trên cơ sở các xã Tân Thái, Vạn Thọ, Bình Thuận,
Quân Chu, Lục Ba, Cát Nê, Ký Phú và thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ; xã
Phúc Tân thuộc huyện Phổ Yên và ba xã Tân Cương, Phúc Xuân và Phúc Trìu ở
phía tây thành phố Thái Nguyên.
Tên Loại
đơn vị
Dân số
(2009)
Diện
tích
(km²)
Thị trấn (đậm) và xã (nhỏ)
Thái
Nguyên
Sông
Thành
phố
277,671
(2009)
330.000
(2010)
189.7 Phường: Trưng Vương, Thịnh Đán,
Tân Long, Quan Triều, Quang Vinh,
Quang Trung, Hoàng Văn Thụ, Đồng
Quang, Phan Đình Phùng, Túc
Duyên, Tân Thịnh, Gia Sàng, Tân
Công
Lập, Phú Xá, Cam Giá,Trung Thành,
Hương Sơn, Tân Thành, Tích Lương.
Xã:Phúc Hà, Phúc Xuân, Phúc Trìu,
Thịnh Đức,Tân Cương, Quyết
Thắng, Lương Sơn, Cao Ngạn, Đồng
Bẩm.
Thị xã 49.481
(2009)
83,64 Phường: Bách Quang, Cải Đan,
Lương Châu, Mỏ Chè, Phố Cò,
Thắng Lợi. Xã: Bá Xuyên, Bình Sơn,
Tân Quang, Vinh Sơn.
Đại Từ Huyện 159.667 578 Đại Từ, Quân Chu, An Khánh, Bản
Ngoại, Bình Thuận, Cát Nê, Cù Vân,
Đức Lương, Hà Thượng, Hoàng
Nông, Hùng Sơn, Khôi Kỳ, Ký Phú,
La Bằng, Lục Ba, Minh Tiến, Mỹ
Yên, Na Mao, Phú Cường, Phú Lạc,
Phú Thịnh, Phú Xuyên, Phúc Lương,
Phục Linh, Quân Chu, Tân Linh, Tân
Thái, Tiên Hội, Vạn Thọ, Văn Yên,
Yên Lãng.
Định
Hóa
Huyện 87.089 521 Chợ Chu, Bảo Cường, Bảo Linh,
Bình Thành, Bình Yên, Bộc Nhiêu,
Điềm Mặc, Định Biên, Đồng Thịnh,
Kim Phượng, Kim Sơn, Lam Vỹ,
Linh Thông, Phú Đình, Phú Tiến,
Phúc Chu, Phượng Tiến, Quy Kỳ,
Sơn Phú, Tân Dương, Tân Thịnh,
Thanh Định, Trung Hội, Trung
Lương.
Đồng Huyện 107.769 461,7 Chùa Hang, Trại Cau, Sông Cầu,
Cây Thị, Hóa Thượng, Hóa Trung,
Hỷ Hòa Bình, Hợp Tiến,Huống Thượng,
Khe Mo, Linh Sơn, Minh Lập, Nam
Hòa, Quang Sơn, Tân Long, Tân
Lợi, Văn Hán,Văn Lăng.
Phổ
Yên
Huyện 137.815 257 Ba Hàng, Bãi Bông, Bắc Sơn, Đắc
Sơn, Đông Cao, Đồng Tiến, Hồng
Tiến, Minh Đức, Nam Tiến, Phúc
Thuận, Phúc Tân, Tân Hương, Tân
Phú, Thành Công, Tiên Phong,
Thuận Thành, Trung Thành, Vạn
Phái.
Phú
Bình
Huyện 134.150 249 Hương Sơn, Bàn Đạt, Bảo Lý,
Dương Thành, Đào Xá, Điềm Thụy,
Đồng Liên, Hà Châu, Kha
Sơn,Lương Phú, Nga My, Nhã Lộng,
Tân Đức, Tân Hòa, Tân Khánh, Tân
Kim, Tân Thành, Thanh
Ninh,Thượng Đình, Úc Kỳ, Xuân
Phương
Phú
Lương
Huyện 105.233 369 Đu, Giang Tiên, Cổ Lũng, Động Đạt,
Hợp Thành, Ôn Lương, Phấn Mễ,
Phú Đô, Phủ Lý, Sơn Cẩm, Tức
Tranh, Vô Tranh, Yên Đổ, Yên Lạc,
Yên Ninh, Yên Trạch.
Võ Nhai Huyện 64.241 845 Đình Cả, Bình Long, Cúc Đường,
Dân Tiến, La Hiên, Lâu Thượng,
Liên Minh, Nghinh Tường, Phú
Thượng, Phương Giao, Sảng Mộc,
Thần Sa, Thượng Nung, Tràng Xá,
Vũ Chấn
1.1.1.4 Cơ cấu dân số:
a. Nhân khẩu:
Theo Niên giám thống kê 2010, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.131.300 người,
trong đó nam có 558.900 người chiếm 49,4% và nữ là 572.400 người chiếm
50,6%, tỉ sô giới tính nam/nữ là 97,6/100. Tổng dân số đô thị là 293.600 người
(25,95%) và tổng dân cư nông thôn là 837.700 người (74,05%). Số con trên mỗi
phụ nữ là 1,9 và tỉ lệ tăng dân số là 0,53% bằng một nửa số với tỉ lệ tăng của cả
nước là 1,05%.
Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, quy mô hộ gia
đình tại tỉnh Thái Nguyên là 3,4 người/hộ. Tỉ số già hóa là 39,5% và tỉ số phụ
thuộc là 42,2%. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cư dân Thái Nguyên là 24
tuổi, trong đó nam là 25,7 tuổi và nữ là 22,3 tuổi, thấp hơn trung bình cả nước với
các số liệu tương ứng là 24,5 tuổi, 26,2 tuổi và 22,8 tuổi. Tỷ lệ xuất cư là 30,2%
còn tỷ lệ nhập cư là 39,6%. Tỉ lệ biết chữ đạt 96,5%, cao hơn mức trung bình cả
nước là 93,5%. Diện tích nhà ở bình quân của Thái Nguyên là 20,1m²/người, trong
đó nhà ở kiên cố đạt 61,7%, nhà ở bán kiên cố đạt 25,6%, nhà ở thiếu kiên cố đạt
4,5% và nhà ở đơn sơ đạt 8,2%. 93,7% nhà ở tại Thái Nguyên là nhà riêng.
Khoảng 35,4% số người xuất cư khỏi Thái Nguyên có điểm đến là Hà Nội và 8,5%
có điểm đến là Thành phố Hồ Chí Minh. Các địa phương có số người nhập cư
nhiều nhất đến Thái Nguyên lần lượt là Bắc Giang, Hà Nội, Bắc Kạn và Cao Bằng.
Cũng như toàn quốc, Thái Nguyên có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ
15 đến 60 là 779.261 người, chiếm 69,38% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có
249.001 người, chiếm 22,17% tổng dân số còn nhóm người trên 60 tuổi có 94.854
người, tức chiếm 8,45%
Không như nhiều tỉnh trung du miền núi phía bắc khác, tỉnh Thái Nguyên có đa
số dân cư là người Kinh (73,1%), tỉ lệ người Kinh chiếm cao hơn tại tỉnh lị,thị xã
Sông Công và các huyện phía nam như Phổ Yên, Phú Bình cũng như tại các khu
vực ven quốc lộ, tỉnh lộ và thị trấn tại các huyện còn lại. Người Kinh ban đâu chỉ là
dân tộc bản địa cư trú tại các khu vực trung du ven sông Cầu ở khu vực phía nam
của tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Vào thời nhà Trần, Lê, Nguyễn, nhiều làng xóm
của người Kinh hình thành tại các khu vực phía nam của tỉnh và dân cư chủ yếu là
các di dân đến từ các nơi thuộc đồng bắng Sông Hồng và Thanh Hóa ngày nay.
Bên cạnh đó, khi các quan triều đình được cử đến Thái Nguyên, họ thường đem
theo cả gia đình, dòng tộc tới định cư. Ngoài ra, nhiều người đến làm ăn và buôn
bán rồi sau đó ở lại Thái Nguyên lập nghiệp. Đặc biệt, trong thời kỳ thuộc Pháp,
rất nhiều người Kinh từ các tỉnh đồng bằng đã được chế độ thực dân đưa lên Thái
Nguyên để làm việc trong các đồn điền và hầm mỏ. Trong kháng chiến chống
Pháp, vì có vai trò là thủ đô kháng chiến nên số người Kinh đến Thái Nguyên ngày
càng tăng. Quá trình người Kinh nhập cư đến Thái Nguyên tiếp tục tăng nhanh vào
sau năm 1954, khi một số cơ sở công nghiệp lớn được hình thành và việc thực hiện
chương trình "kinh tế mới". Ngay từ năm 1960, người Kinh đã chiếm 74,56% dân
số tỉnh. Người Kinh ở Thái Nguyên nói chung vẫn giữ được nhiều phong tục
truyền thống của cha ông tại miền xuôi, mặc dù vậy nhiều yếu tố đã bị phai nhạt,
đặc biệt là ở khu vực các huyện phía bắc, họ chịu ảnh hưởng của các dân tộc thiểu
số bản địa.[35]
Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa
thớt, trong khi đó ở thành thị và đồng bằng dân cư lại dày đặc. Mật độ dân số thấp
nhất là huyện Võ Nhai 72 người/km², cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật
độ 1.260 người/km ². Theo tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm
(1999-2009) dân số tỉnh tăng bình quân 0,7%/năm, thấp hơn mức bình quân của cả
nước là 1,2% do có nhiều người di chuyển đi các tỉnh khác, trong đó ba
huyện Định Hóa, Đại Từ và Phú Bình có tăng trưởng dân số âm.
b. Thành phần dân tộc:
Trên địa bàn tỉnh hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh
sống, trong đó 8 dân tộc đông dân nhất là:
Dân tộc Dân số
(người)
Tỉ lệ
so với
tổng
dân số
tỉnh
Dân số đ