Ngày nay, tất cả các nước trên thế giới đều bị lôi cuốn bởi dòng chảy mãnh liệt của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Chúng ta đang ngày càng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới về tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội , do đó tất yếu làm phát sinh nhu cầu về ngoại tệ. Để đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho sử dụng và trao đổi, và để ổn định đồng tiền quốc gia đòi hỏi Chính phủ và ngân hàng nhà nước (NHNN) phải có những biện pháp và chính sách phù hợp để quản lí nguồn ngoại hối trong nước.
Trong những năm vừa qua, việc thực hiện chính sách quản lí ngoại hối của NHNN cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Quản lí ngoại hối và điều hành tỉ giá đã thực sự góp phần ổn định giá trị đồng tiền quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và gia tăng dự trữ về ngoại hối Việc ban hành các cơ chế chính sách của nhà nước cũng đã và đang được tiến hành theo hướng ngày càng tự do hoá về nhiều mặt như: tỉ giá được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tỉ lệ kết hối ngày càng có xu hướng giảm, nới lỏng các điều kiện cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tạo điều kiện thu hút lượng lớn ngoại tệ vào trong nước cơ chế quản lí hiện nay năng động và phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, việc quản lí ngoại hối ở nước ta vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay việc mở cửa và tự do hoá thương mại đã làm cho các rào cản ngăn cách giữa các quốc gia bị phá bỏ, việc hội nhập như thế nào để phát triển là rất khó khăn.
Để hoạt động ngoại hối đi vào ổn định và ngày càng phát triển thì việc đặt ra các quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ đối với các chủ thể là vô cùng cần thiết .Ở nước ta, chế độ quản lý nhà nước về ngoại hối được đặt ra với 2 nhóm đối tượng là Người cư trú và Người không cư trú. Trong pháp luật Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của Người cư trú và Người không cư trú trong hoạt động ngoại hối được quy định như thế nào? Khác nhau cơ bản ở những điểm nào?
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2235 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của Người cư trú (NCT) và Người không cư trú (NKCT) khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, tất cả các nước trên thế giới đều bị lôi cuốn bởi dòng chảy mãnh liệt của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Chúng ta đang ngày càng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới về tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…, do đó tất yếu làm phát sinh nhu cầu về ngoại tệ. Để đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho sử dụng và trao đổi, và để ổn định đồng tiền quốc gia đòi hỏi Chính phủ và ngân hàng nhà nước (NHNN) phải có những biện pháp và chính sách phù hợp để quản lí nguồn ngoại hối trong nước.
Trong những năm vừa qua, việc thực hiện chính sách quản lí ngoại hối của NHNN cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Quản lí ngoại hối và điều hành tỉ giá đã thực sự góp phần ổn định giá trị đồng tiền quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và gia tăng dự trữ về ngoại hối … Việc ban hành các cơ chế chính sách của nhà nước cũng đã và đang được tiến hành theo hướng ngày càng tự do hoá về nhiều mặt như: tỉ giá được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tỉ lệ kết hối ngày càng có xu hướng giảm, nới lỏng các điều kiện cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tạo điều kiện thu hút lượng lớn ngoại tệ vào trong nước…cơ chế quản lí hiện nay năng động và phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, việc quản lí ngoại hối ở nước ta vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay việc mở cửa và tự do hoá thương mại đã làm cho các rào cản ngăn cách giữa các quốc gia bị phá bỏ, việc hội nhập như thế nào để phát triển là rất khó khăn.
Để hoạt động ngoại hối đi vào ổn định và ngày càng phát triển thì việc đặt ra các quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ đối với các chủ thể là vô cùng cần thiết .Ở nước ta, chế độ quản lý nhà nước về ngoại hối được đặt ra với 2 nhóm đối tượng là Người cư trú và Người không cư trú. Trong pháp luật Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của Người cư trú và Người không cư trú trong hoạt động ngoại hối được quy định như thế nào? Khác nhau cơ bản ở những điểm nào?
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung:
Để hiểu được chế độ quản lý của Nhà nước về ngoại hối đối với hai nhóm đối tượng là người cư trú và người không cư trú cùng những đặc điểm đi kèm thì ta phải tìm hiểu về các khái niệm cơ bản của vấn đề đó .
1.1. Khái niệm ngoại hối.
Trong nền kinh tế hội nhập, mỗi quốc gia đều có nhu cầu sử dụng ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa hay can thiệp vào thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ, điều hòa cán cân thanh toán quốc tế… Do những ảnh hưởng lớn lao của ngoại hối đối với đời sống kinh tế - xã hội nên Chính phủ mỗi quốc gia đều tìm cách lựa chọn cho mình một chính sách thích hợp trong việc quản lý ngoại hối. Cho đến nay, các nghiên cứu khoa học vẫn chưa đưa ra một định nghĩa chính thức về ngoại hối. Tuy nhiên, theo hầu hết các nghiên cứu về ngoại hối, ngoại hối được định nghĩa nói chung như sau: "Ngoại hối là danh từ dùng để chỉ các phương tiện dùng trong thanh toán quốc tế như ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế và các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ". Theo khoản 1 điều 4 pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005 thì ngoại hối được định nghĩa bằng cách liệt kê các tài sản được coi là ngoại hối:
"1. Ngoại hối bao gồm:
a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.”
Như vậy từ định nghĩa ngoại hối mà nước ta đang sử dụng có thể thấy ngoại hối được sử dụng mang tính ước lệ và nghiêng về ý nghĩa pháp lí nhiều hơn ý nghĩa kinh tế trên thị trường tài chính tiền tệ. Quan điểm về khái niệm ngoại hối có thể được hiểu không hoàn toàn thống nhất trong hệ thống pháp luật của mỗi nước. Do vậy mà quan điểm về hoạt động ngoại hối cũng có sự khác biệt, trong đó có sự khác biệt về hoạt động ngoại hối của người cư trú và người không cư trú. Vậy theo pháp luật Việt Nam hiện hành tương ứng với định nghĩa ngoại hối như trên, hoạt động ngoại hối được hiểu như thế nào?
1.2. Khái niệm hoạt động ngoại hối:
Theo góc độ khoa học pháp lí: Hoạt động ngoại hối là tổng hợp các hành vi pháp lí do các chủ thể khác nhau thực hiện trong quá trình chiếm hữu sử dụng và định đoạt các tài sản coi được coi là ngoại hối. Các hành vi pháp lí này có thể là hành vi pháp lí hoặc hành vi thương mại phụ thuộc vào việc người sử dụng chúng vì nhu cầu dân sự hay thương mại.
Theo góc độ pháp luật thực định: Tại khoản 8 Điều 4 pháp lệnh ngoại hối 2005 qui định "Hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối."
Như vậy hoạt động ngoại hối tương ứng với định nghĩa ngoại hối mà ta đã tìm hiểu ở trên là một quá trình hoạt động kinh tế - pháp lí của các chủ thể, thông qua việc xác lập và thực hiện các giao dịch khác nhau về ngoại hối. Hoạt động ngoại hối có đối tượng là chính là các ngoại hối đã được pháp luật Việt Nam qui định và cho phép lưu thông và các dịch vụ ngoại hối. Nội dung của hoạt động ngoại hối bao gồm các giao dich vãng lai, giao dịch vốn, các hành vi sử dụng ngoại hối hay cung ứng dịch vụ về ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Và chủ thể của hoạt động ngoại hối là người cư trú và người không cư trú trực tiếp tham gia vào các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.
Chủ thể tham gia hoạt động ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
Về nguyên tắc, chủ thể sử dụng ngoại hối bao giờ cũng là tổ chức hoặc cá nhân. Tuy nhiên theo cách phân loại hiện hành thì chủ thể sử dụng ngoại hối bao gồm người cư trú (cá nhân, tổ chức) và người không cư trú (cá nhân, tổ chức). Xét từ góc độ quản lý nhà nước thì cách phân loại này giúp cho Nhà nước có chính sách quản lý thích hợp cho từng đối tượng quản lý nhà nước về ngoại tệ. Tuy nhiên, các nhà làm luật lại không đưa ra định nghĩa khái quát thế nào là người cư trú và người không cư trú mà chỉ liệt kê những tổ chức, cá nhân nào thuộc loại người cư trú và người không cư trú. Và căn cứ theo những văn bản pháp luật đã ban hành cụ thể là pháp lệnh ngoại hối năm 2005 thì những đối tượng đó được xác định như sau:
"2. Người cư trú là tổ chức, cá nhân thuộc các đối tượng sau đây:
a) Tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (sau đây gọi là tổ chức tín dụng);
b) Tổ chức kinh tế được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trừ đối tượng quy định tại điểm a khoản này (sau đây gọi là tổ chức kinh tế);
c) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt Nam;
d) Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại nước ngoài;
đ) Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các điểm a, b và c khoản này;
e) Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá nhân đi theo họ;
g) Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài;
h) Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thời hạn từ 12 tháng trở lên, trừ các trường hợp người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm việc cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
3. Người không cư trú là các đối tượng không quy định tại khoản 2 Điều này."
Theo như qui định trên thì "người" ở đây được hiểu ở hai khía cạnh là cá nhân và tổ chức là công dân hay không phải là công dân Việt Nam. Nhìn vào qui định của pháp luật hiện hành như trên có thế thấy có sự qui định tương đối rõ ràng thế nào được gọi là người cư trú trong hoạt động ngoại hối và có sự khác biệt cơ bản trong khái niệm phân biệt với người không cư trú với phương pháp định nghĩa loại trừ như trên. Nhưng cũng chính vì vậy dẫn đến sự không cụ thể về phần định nghĩa đối với người không cư trú.
Từ những khái niệm pháp lí cơ bản về ngoại hối, hoạt động ngoại hối, người cư trú (NCT), người không cư trú (NKCT) chúng ta tiếp tục có những qui định pháp luật cụ thế về hoạt động ngoại hối của người cư trú và người không cư trú, sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của người cư trú và người không cư trú khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
II. Quyền và nghĩa vụ của NCT và NKCT khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam:
2.1. Nguyên tắc sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam:
Căn cứ theo những quy định của pháp luật, ngoài quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trong các giao dịch thanh toán, niêm yết, quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam như dự liệu tại Điều 29 Nghị định số số 160/2006/NĐ – CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối 2005, NCT và NKCT có quyền sử dụng ngoại hối của mình trên lãnh thổ Việt Nam theo nguyên tắc sau:
NCT và NKCT được mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch hợp pháp của mình trên lãnh thổ Việt Nam như tiếp nhận ngoài tệ từ nước ngoài chuyển vào hoặc từ các nguồn thu ngoại tệ ở trong nước; chuyển ngoại tệ để bán cho các tổ chức tín dụng được phép; chi trả bằng ngoại tệ cho các giao dịch hợp pháp của mình thông qua tổ chức tín dụng, rút ngoại tệ tiền mặt để chi tiêu cho nhu cầu cá nhân…
NCT, NKCT là cá nhân có ngoại tệ tiền mặt được quyền cất giữ, mang theo người, cho tặng, thừa kế, bán cho các tổ chức tín dụng được phép, chuyển, mang ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài phục vụ cho các nhu cầu và mục đích hợp pháp của mình.
NCT và NKCT là cá nhân được sử dụng thẻ thanh toán quốc tế để giao dịch với khách hàng thông qua các tổ chức tín dụng được phép và các đơn vị chấp nhận thẻ. Các đơn vị chấp nhận thẻ chỉ được nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam từ ngân hàng thanh toán thẻ.
NCT là tổ chức, cá nhân có quyền mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ của mình ở nước ngoài để thỏa mãn các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Khi chấm dứt hoạt động hoặc hết hạn ở nước ngoài, các tổ chức cá nhân là chủ tài khoản phải đóng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài và chuyển toàn bộ số dư ngoại tệ về nước.
Riêng đối với NCT là tổ chức kinh tế có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc có nhu cầu mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về điều kiện, hồ sơ, thủ tục cấp và thu hồi giấy phép mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài.
NCT là cá nhân nước ngoài được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt Nam để thực hiện các giao dịch thu, chi và giao dịch đầu tư gián tiếp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
NKCT là tổ chức, cá nhân được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch thu, chi theo quy định của pháp luật
.
Như vậy, có thể thấy rằng, hành vi sử dụng ngoại hối được đề cập chủ yếu ở đây là ngoại tệ và pháp luật thừa nhận quyền sở hữu ngoại tệ của các chủ thể trong việc cất giữ, mang theo người khi xuất nhập cảnh, cho tặng, để tại thừa kế. Tuy nhiên do đặc thù hai đối tượng này có địa vị pháp lý khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của NCT và NKCT khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam cũng có một số điểm khác nhau nhất định. Nội dung tiếp sau đây sẽ đề cập tới vấn đề sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của những đối tượng trên khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
2.2. Sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của Người cư trú và Người không cư trú khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
2.2.1. Đối với cá nhân:
* Trong mở và sử dụng tài khoản:
Quyền mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng được phép ở Việt Nam được quy định tại Điều 23 PLNH và tại Điều 30, 31 NĐ 160.
NCT, NKCT là cá nhân có tài khoản tiền gửi ngoại tệ được thu ngoại tệ vào tài khoản từ các nguồn sau: thu ngoại tệ chuyển khoản từ nước ngoài chuyển vào; thu ngoại tệ tiền mặt từ nước ngoài mang vào theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam; thu ngoại tệ từ các nguồn thu hợp pháp khác
Và được chi ngoại tệ từ tài khoản vào các mục đích sau đây: chi bán cho TCTD được phép; chi chuyển tiền, thanh toán cho các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch được phép thanh toán trong nước bằng ngoại tệ; chi chuyển đổi ra các loại ngoại tệ khác hoặc các công cụ thanh toán khác bằng ngoại tệ; cho tặng, thừa kế theo quy định của pháp luật; chi rút ngoại tệ tiền mặt; chi chuyển ra nước ngoài hoặc chuyển sang tài khoản tiền gửi ngoại tệ của NKCT khác (đối với trường hợp NKCT là cá nhân); chi chuyển sang gửi tiết kiệm ngoại tệ tại TCTD được phép (đối với trường hợp NCT là cá nhân).
Đối với tài khoản ngoại tệ nước ngoài của NCT thì: Công dân Việt Nam trong thời gian ở nước ngoài được mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài theo quy định pháp luật của nước sở tại. Nhưng khi chấm dứt hoặc hết thời hạn ở nước ngoài phải đóng tài khoản này và chuyển toàn bộ số dư ngoại tệ về nước, trừ trường hợp có nhu cầu để lại ngoại tệ ở nước ngoài, phải thực hiện theo các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, khi NCT là cá nhân sử dụng đồng tiền của nước có chung biên giới với Việt Nam sẽ được mở tài khoản bằng đồng tiền của nước đó tại các TCTD được phép.
Nhà nước cũng cho phép NKCT là cá nhân có thu nhập bằng đồng Việt Nam được mở tài khoản bằng đồng Việt Nam tại các ngân hàng ở Việt Nam và được sử dụng đồng Việt Nam vào mục đích như: thanh toán hoặc rút tiền mặt để chi tiêu tại Việt Nam; thanh toán cho các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn theo quy định tại Nghị định này; cho tặng, thừa kế theo quy định của pháp luật;… (theo Điều 33 NĐ 160).
Như đã phân tích ở trên ta có thể thấy việc pháp luật quy định quyền mở tài khoản ngoại tệ trong nước của NCT là cá nhân tại các ngân hàng được phép, nhằm mục đích để Nhà nước thực hiện việc quản lý và kiểm soát ngoại tệ trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho các cá nhân sử dụng tài khoản để giao dịch. Tuy nhiên, do nguồn thu về ngoại tệ của loại chủ thể này thường là không lớn, và việc sử dụng chúng ít gây bất lợi cho nền kinh tế hay đời sống xã hội, vì thế, các quy định cụ thể về thu – chi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với đối tượng này là tương đối rộng rãi hơn so với NKCT. Bằng việc quy định các trường hợp nào được ghi thu, ghi chi trên tài khoản ngoại tệ, nhà làm luật muốn thể hiện quan điểm can thiệp ở mức độ khác nhau đối với quyền mở và sử dụng tài khoản của hai đối tượng này. Tuy nhiên, sự phân biệt này chưa phải là giải pháp hợp lý. Bởi lẽ điều đó có thể gây ra các hậu quả bất lợi cho Nhà nước và xã hội trên cả phương diện kinh tế cũng như chính trị, ngoại giao. Sự bất cập của quy định này thể hiện ở chỗ, trong khi cá nhân là NCT được quyền thu ngoại tệ tiền mặt dưới hình thức cho tặng, thừa kế thì cá nhân là NKCT lại không có quyền đó. Mặt khác, trên thực tế, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam (dưới 12 tháng) hoặc đến Việt Nam học tập, chữa bệnh (không kể thời gian) hoàn toàn có thể nhận tiền tặng cho hoặc thừa kế để tiêu dùng trong thời gian ở Việt Nam. Ngoài ra, theo quy định hiện hành thì cá nhân là NKCT được quyền chuyển ngoại tệ trên tài khoản của mình sang tài khoản ngoại tệ của NKCT khác nhưng trong phần ghi thu tài khoản ngoại tệ của NKCT lại không có quy định nào về việc được phép nhận ngoại tệ chuyển khoản từ NKCT khác.
* Trong việc mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
Công dân Việt Nam có nhu cầu ngoại tệ để chuyển, mang ra nước ngoài cho các mục đích đi du lịch, học tập, công tác, thăm viếng, chữa bệnh, trả tiền hội viên và các loại phí khác cho nước ngoài hoặc trợ cấp, thừa kế cho gia đình và người thân ở nước ngoài, có thể được liên hệ với các Ngân hàng được phép để mua ngoại tệ sau khi gửi cho Ngân hàng đơn xin mua ngoại tệ và các Giấy tờ hợp pháp chứng minh các nhu cầu thực tế phải chi ngoại tệ ở nước ngoài.
Đối với NKCT và NCT là người nước ngoài:
- NKCT là cá nhân có các khoản thu nhập bằng đồng Việt Nam từ lương, thưởng, phụ cấp hoặc các nguồn thu khác bằng đồng Việt Nam được pháp luật Việt Nam cho phép thì được sử dụng số đồng Việt Nam đó để mua ngoại tệ tại các Ngân hàng được phép và được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài khi có nhu cầu. Khi hết thời hạn làm việc tại Việt Nam hoặc kết thúc hợp đồng lao động ký với phía Việt Nam có nhu cầu chuyển ra nước ngoài toàn bộ số thu nhập bằng ngoại tệ trong thời gian ở Việt Nam thì khi làm thủ tục chuyển tiền phải xuất trình cho Ngân hàng chuyển tiền văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính ở Việt Nam.
- NCT là người nước ngoài hết thời hạn làm việc tại Việt Nam hoặc kết thúc hợp đồng lao động ký với phía Việt Nam có nhu cầu chuyển ra nước ngoài toàn bộ số thu nhập bằng ngoại tệ trong thời gian ở Việt Nam phải xuất trình cho Ngân hàng chuyển tiền văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính ở Việt Nam; nếu có các khoản thu nhập hợp pháp bằng Đồng Việt Nam được pháp luật Việt Nam cho phép khi có nhu cầu chuyển đổi thành ngoại tệ thì được mua ngoại tệ tại các Ngân hàng được phép để chuyển ra nước ngoài.
Đối với quy định về mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của NCT và NKCT, pháp luật đã khẳng định quyền được sở hữu không hạn chế đối với ngoại tệ có nguồn gốc hợp pháp từ các giao dịch hợp pháp của Người cư trú là cá nhân. Tính không hạn chế của quyền năng này thể hiện ở chỗ, Người cư trú là cá nhân không bị giới hạn về số lượng ngoại tệ được sở hữu, không bị buộc phải bán ngoại tệ thu được từ các giao dịch vãng lai hay từ các giao dịch khác cho các ngân hàng được phép tại Việt Nam. Ngoài ra, người cư trú cá nhân còn có toàn quyền quyết định việc mình để lại toàn bộ hay 1 phần số ngoại tệ sở hữu tại nhà hoặc gửi vào tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Đó chính là điểm khác biệt rõ nét so với NKCT cụ thể là Công dân Việt Nam khi mua ngoại tệ phải có lí do chính đáng (sáu mục đích như đã trình bày ở trên) nhưng ngoài quy định đó pháp luật không quy định nào khác về điều kiện mua ngoại tệ như đối với NKCT và NCT là người nước ngoài. Những đối tượng này chỉ được mua ngoại tệ khi có thu nhập bằng đồng Việt Nam và được pháp luật Việt Nam cho phép thì mới được mua ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép và phải có văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính.
Mặc dù các quy định của pháp luật không ghi rõ các giấy tờ chứng minh cho các mục đích sử dụng phải được công chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, song nhiều chi nhánh Ngân hàng Nhà nước vẫn yêu cầu thủ tục này. Sự bất cập trên đã gây phiền phức không đáng có cho người sử dụng ngoại tệ.
* Bán, đổi ngoại tệ.
Đối với cá nhân, việc bán, đổi ngoại tệ không phải là nghĩa vụ như đối với tổ chức, bởi pháp luật thừa nhận quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản là ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, trong PLNH 2005 cũng như các văn bản pháp luật liên quan không có một điều khoản nào quy định cụ thể về vấn đề này ngoài quy định phải bán, đổi ngoại tệ tại các TCTD được phép.
Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành, nếu cá nhân muốn mua ngoại tệ thì phải có đơn và các giấy tờ liên quan chứng minh mục đích, mức sử dụng nhu cầu ngoại tệ của mình thì khi bán hay đổi ngoại tệ, họ không cần phải chứng minh nguồn gốc ngoại tệ mình sở hữu là từ đâu