Lịch sửphát triển củaxã hội có giai cấp là lịch sửđấu tranh giai cấp.Trong
mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình
thái kinh tế-xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó
là giai cấp cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo
quá trình chuyển biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của
lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định
“Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động vàtoàn thể nhân loại khỏi mọiáp bức, bóclột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to
lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.T rong giai đoạn hiện
nay , côngcuộccông nghiệp hoá, hiện đạihoáđangdiễnratrên toàn thếgiới, chủ
nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới,
cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại” về sư mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đanglà thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu
cực.thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra
trở nên bưcthiết hơn baogiờ hết, cả trênhai phương diện lý luận và thực tiễn
24 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 15007 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và các vấn đề có liên quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mục lục........................................................................................................................................1
A – Lý do chọn đề tài...................................................................................................................1
B- Nội dung..................................................................................................................................3
I- Khái niệm về giai cấp công nhân.........................................................................................3
1. Quan niệm của Mác giai cấp công nhân..........................................................................3
2 - Những biến đổi của giai cấp công nhân ngày nay so với thời kỳ của Mác....................4
II – Những cơ sở khách quan để Mác khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có
sứ mệnh lịch sử........................................................................................................................9
1 – Nội dung sứ mệnh lịch sử..............................................................................................9
2 – Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân........13
a.Về địa vị kinh tế xã hội:..................................................................................................13
b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:........................................................................................15
III – Những yếu tố chủ quan và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của GCCN.......17
1 – Những yếu tổ chủ quan................................................................................................17
2 - Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của GCCN........................19
3 – Vì sao giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không có sứ mệnh lịch sử....................22
C –Kết luận................................................................................................................................23
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................................24
A – Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.Trong
mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình
thái kinh tế-xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó
là giai cấp cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo
quá trình chuyển biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của
lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định
“Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to
1
lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.Trong giai đoạn hiện
nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ
nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới,
cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại” về sư mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu
cực...thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra
trở nên bưc thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.
2
B- Nội dung
I- Khái niệm về giai cấp công nhân
1. Quan niệm của Mác giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô
sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc
phải làm gì về mặt lịch sử “. Để phân biệt rõ sự khác nhau giữa giai cấp công
nhân và giai cấp vô sản. Khi trình bày “Lịch sử phát triển giai cấp vô sản” thì
Mác và Ăngghen đã loại dần những người vô sản nói chung ra, để cuối cùng chỉ
nói đến “những người vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp
do công nghiệp sản sinh ra”. Vì vậy, chúng ta chỉ chú ý trước tới những công
nhân công nghiệp... Như vậy, không phải Mác nói vô sản chung chung, bất kỳ,
mà chỉ là “vô sản trong công nghiệp”, do nền đại công nghiệp sản sinh ra. Theo
cách đặt vấn đề như trên thì giai cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ
cuộc cách mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công nghiệp. Các ông rất
thận trọng khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh,
các loại tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực lượng khác nhau về
chất lượng. Các ông đã viết: "còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu
cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, có thể được
cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại
khiến họ sẵn sàng bán mình cho phe phản động hơn”. Để tìm hiểu bản chất giai
cấp công nhân là gì, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xét trên 2 tiêu chí:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công
nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
3
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới tiêu chí một đó là
công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân
hiện đại. Hai ông cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với
sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền
đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống
như máy móc cũng vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công
nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì
chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai
cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai
cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm đ-
ược việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư
bản- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm
ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một
món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự
lên xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ
bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và
Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
2 - Những biến đổi của giai cấp công nhân ngày nay so với thời kỳ của Mác.
Từ sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ
thù của chủ nghĩa xã hội cố tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đang “hội tụ”
vào chủ nghĩa tư bản; rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi căn bản khác xa với
4
thời C.Mác còn sống; giai cấp công nhân đã có mức sống cao, có tư liệu sản
xuất, có cổ phần nên không bị bóc lột nữa. Do sự tác động của khoa học công
nghệ, giai cấp công nhân ngày càng nhỏ bé vì số người sản xuất vật chất ngày
một ít. Vì thế, họ cho rằng: giai cấp công nhân đang “hòa tan” vào chủ nghĩa tư
bản và không còn là giai cấp trung tâm của xã hội; rằng: vai trò của công nhân đã
thuộc về tầng lớp trí thức; trí thức hiện nay là chủ thể của xã hội, là lực lượng cơ
bản thúc đẩy lịch sử tiến lên. Từ đó họ vội vàng đi đến kết luận: sứ mệnh lịch sử
xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra trong
Tuyên ngôn là không còn giá trị nữa?
Để làm rõ điều này, ta vẫn dựa vào 2 tiêu chí đã nêu ở trên:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công
nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Lấy hai tiêu chí trên để phân biệt và xác định rằng giai cấp công nhân
ngày nay không hề bị biến mất mà trái lại ngày càng không ngừng phát triển về
số lượng. Cụ thể theo tổ chức lao động quốc tế 1900, toàn thế giới có 80 triệu
công nhân, đến 1990 có hơn 600 triệu, đến 1998 tăng đến 800 triệu.
Đối với giai cấp công nhân hiện nay mặc dù cơ cấu ngành nghề ở các nuớc tư
bản dịch vụ chiếm 50-70% sản xuất đã được tự động hoá với một trình rất cao,
nhưng trong lao động kể cả trực tiếp hay gián tiếp người lao động điều phải sử
dụng công cụ lao động của cộng nghiệp hiện đại và họ điều là những nguời
không có tư liệu sản xuất. Do đó xét về địa vị xã hội họ vẫn là người làm thuê.
Nếu như trước kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ bắp là chủ yếu, thì
5
ngày nay họ còn bán luôn cả sức lao động trí óc và đôi khi bán chất xám lại là
điều chủ yếu.
Trong xã hội ngày nay một số công nhân cũng có tư liệu sản xuất, họ cũng
làm chủ, một số còn có cổ phần…. có phải cuộc sống của công nhân được trung
lưu hóa? Vậy họ có còn là công nhân không? Để trả lời câu hỏi này chúng ta xét
ở hai xã hội:
Ở các nước tư bản, phần đông họ không còn là những người vô sản trần
trụi với hai bàn tay trắng, như phân tích của Mác đưa ra ngày trước mà một số họ
có tư liệu sản xuất phụ mà họ có thể cùng gia đình làm thêm ở nhà để thực hiện
một số công đoạn phụ cho nhà máy, xí nghiệp. Một số ít có cổ phần nhưng rất bé
và bản thân họ cũng chỉ là những người lao động làm thuê, bị bóc lột tư bản một
cách ngày càng tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột
giá trị thặng dư trung bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi,
như tập đoàn Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Và trên thực tế không phải
người công nhân nào cũng có thể mua được cổ phần.
Đối các nước XHCN sau khi giành được chính quyền họ trở thành giai
cấp lãnh đạo, Tư liệu sản xuất là của chung. Họ vẫn là giai cấp công nhân nhưng
không còn là vô sản như trước nữa. Như vậy về địa vị kinh tế xã hội của giai cấp
công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa căn bản đã khác so với trước đây nhưng
trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay thì còn có một
bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân và họ vẫn là người
bị bóc lột.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ
thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước
tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn như
6
trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày
càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% - 40%, ngành
nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm 1961 đến năm
1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở Thụy Sĩ
giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18%.
Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến
những người lao động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói
đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn
công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng
lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của
chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát
triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức hóa, những công nhân
"áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh"
ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công
nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.
Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở
rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan
trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào
mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình
thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của
cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của khoa học -
công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng;
khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng
như tiên đoán của C.Mác.
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy
chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành
7
độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước,
nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng
chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng, đến năm
2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong
cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển,
nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và
tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành
nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ
và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng
góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể giảm xuống còn 10%
(đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch vụ và công
nghiệp có thể lên tới 80% - 90%. Những thành tựu của cách mạng tin học đang
xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính -
viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin
đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào loại
cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình
thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Tóm lại, có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai
tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là
cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc
biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày
nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và
8
phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên
tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
II – Những cơ sở khách quan để Mác khẳng định giai cấp công nhân là giai
cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử.
1 – Nội dung sứ mệnh lịch sử
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp luôn có mâu thuẫn giữa
Lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội hóa cao với Quan hệ sản xuất
cũ, lạc hậu; mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao
động: là người sáng tạo chân chính ra lịch sử; là người có vai trò quyết định sáng
tạo công cụ sản xuất, giá trị thặng dư, chính trị xã hội. Khi trong xã hội còn tồn
tại giai cấp bóc lột trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức
sản xuất đó còn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, luôn tồn tại một
giai cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại
diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập;
giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách
mạng. Và hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây
dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội chủ
nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng
sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội
9
trước để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã
từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện
mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản
chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất
phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng quan
hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp,
điều đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và
giải phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao
động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về
giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả
năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến
cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức
bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp
bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ăngghen viết:” Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại ”. Còn Lênin đã chỉ rõ:” Điểm chủ yếu
trong học thuyết của C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở đây
chính là:
10
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu
tư nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao
năng suất lao động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối
cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu. Do đó nó cần phải được thực hiện một cách lâu
dài, gian khổ, trải qua từng bước cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư
liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu là quá trình phù hợp nhưng phải dần
dần từ từ.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ tư hữu? Sở dĩ như vậy vì đây là cơ sở của chế
độ người bóc lột người; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu
sản xuất là sở hữu tư bản chủ nghĩa do đó p