Đề tài Sự phát triển kinh tế - Xã hội miền bắc (1954 - 1975)

Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, chế độ kinh tế nước ta đã có những thay đổi sâu sắc. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và sự thành lập của nhà nước dân chủ nhân dân đã tạo những điều kiện để chúng ta cải biên nền kinh tế mang nặng tính chất thuộc địa và nửa phong kiến thành một nền kinh tế độc lập tự chủ. Nhiệm vụ kinh tế đó chưa được thực hiện được bao nhiêu thì dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến gian khổ và lâu dài chống bọn đế quốc xâm lược để bảo vệ nền độc lập mới giành được, để bảo vệ nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Trong tình hình như vậy mà phải chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tàn tích thực dân phong kiến và rất thấp kém thành một nền kinh tế kháng chiến, một nền kinh tế có khả năng phục vụ cho nhu cầu to lớn của cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ Quốc, thật là một sự nghiệp vô cùng khó khăn , nhưng nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước dân chủ nhân dân kết hợp với lòng yêu nước cao độ, lòng hi sinh vô bờ bến và tinh thần phấn đấu tự lực cánh sinh của nhân dân cả nước, một nền kinh tế kháng chiến đã vững vàng như ý chí chiến đấu cứu nước của nhân dân ta, đã xây dựng được và lớn mạnh dần theo đà phát triển của cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước. Nền kinh tế được xây dựng lên trong thời kì khói lửa ấy, tuy không thể nói là phồn thịnh, nhưng đã đảm bảo được cho quân và dân ta có đủ cơm ăn áo mặc để theo đuổi cuộc đấu tranh vũ trang đến thắng lợi. Nền kinh tế kháng chiến không phải chie là một nền kinh tế dân tộc mà nó còn mang ngày càng nhiều tính chất dân chủ: Cuộc cách mạng ruộng đất đã được thực hiện từng bước ngay trong thời kỳ kháng chiến, một phần lớn ruộng đất trước đây tập trung trong tay bọn thực 4 dân và phong kiến, lần lượt chuyển về tay dân cày, và cuối cùng, những đợt triệt để cải cách ruộng đất tiến hành trước và sau ngày hòa bình được lập lại đã hoàn toàn xóa bỏ những tàn tích phong kiến trong nền kinh tế miền Bắc nước ta. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta đã thu được tháng lợi to lớn, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc phong kiến. Chính Đảng Mác - Lênin chủ trương cách mạng không ngừng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành ở miền Bắc có ý nghĩa là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu. Nhiệm vụ cơ bản đặt ra trước mắt chúng ta là phải làm thế nào cải biến nền kinh tế có nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vận dụng một cách sáng tạo, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình và đặc điểm cụ thể của nước ta kết hợp chặt chẽ với hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hùng cường, Đảng ta đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân lao động đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.

pdf60 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3106 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự phát triển kinh tế - Xã hội miền bắc (1954 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI MIỀN BẮC (1954 - 1975) MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................ I - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1954. ............................................................................................... 1. Khái quát cơ cấu kinh tế Miền Bắc trước cách mạng -Tháng Tám - 1945........................................................................ 2. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong giai đoạn 1945 - 1954 .................................................................................. 3. Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm về kinh tế trong giai đoạn tiếp theo ............................................................. 4. Tiểu kết ............................................................................. II - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1954 - 1960. ............................................................................................... 1. Khái quát cơ cấu kinh tế Miền Bắc thời kì 1954 - 1960 2. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc thời kì 1954 -1960 1.1. Cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong những năm 1954 - 1957 ........................................................................... 1.2. Cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong những năm 1958 - 1960 ........................................................................... 1 3.Thành tựu hạn chế và bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo ................................................................................... 4. Tiểu kết ......................................................................... III - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong giai đoạn 1961 - 1975 ..................................................................................... 1. . Khái quát về cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1961 - 1975 2. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1961 - 1975 .... 1.1. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1961 - 1964 .......... 1.2. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1964 - 1975 ........... 4. Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm .................... 5. Tiểu kết ........................................................................... IV - Một số nhận xét về cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1975 .................................................................... 1. Đặc điểm sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc thời kì 1945 - 1975 ................................................................ 2. Đóng góp và hạn chế của cơ cấu kinh tế Miền Bắc 1954 - 1975 ........................................................................... 3. Bài học kinh nghiệm .................................................. V - Kết luận ..................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. LỜI NÓI ĐẦU 2 Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, chế độ kinh tế nước ta đã có những thay đổi sâu sắc. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và sự thành lập của nhà nước dân chủ nhân dân đã tạo những điều kiện để chúng ta cải biên nền kinh tế mang nặng tính chất thuộc địa và nửa phong kiến thành một nền kinh tế độc lập tự chủ. Nhiệm vụ kinh tế đó chưa được thực hiện được bao nhiêu thì dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến gian khổ và lâu dài chống bọn đế quốc xâm lược để bảo vệ nền độc lập mới giành được, để bảo vệ nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Trong tình hình như vậy mà phải chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tàn tích thực dân phong kiến và rất thấp kém thành một nền kinh tế kháng chiến, một nền kinh tế có khả năng phục vụ cho nhu cầu to lớn của cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ Quốc, thật là một sự nghiệp vô cùng khó khăn , nhưng nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước dân chủ nhân dân kết hợp với lòng yêu nước cao độ, lòng hi sinh vô bờ bến và tinh thần phấn đấu tự lực cánh sinh của nhân dân cả nước, một nền kinh tế kháng chiến đã vững vàng như ý chí chiến đấu cứu nước của nhân dân ta, đã xây dựng được và lớn mạnh dần theo đà phát triển của cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước. Nền kinh tế được xây dựng lên trong thời kì khói lửa ấy, tuy không thể nói là phồn thịnh, nhưng đã đảm bảo được cho quân và dân ta có đủ cơm ăn áo mặc để theo đuổi cuộc đấu tranh vũ trang đến thắng lợi. Nền kinh tế kháng chiến không phải chie là một nền kinh tế dân tộc mà nó còn mang ngày càng nhiều tính chất dân chủ: Cuộc cách mạng ruộng đất đã được thực hiện từng bước ngay trong thời kỳ kháng chiến, một phần lớn ruộng đất trước đây tập trung trong tay bọn thực 3 dân và phong kiến, lần lượt chuyển về tay dân cày, và cuối cùng, những đợt triệt để cải cách ruộng đất tiến hành trước và sau ngày hòa bình được lập lại đã hoàn toàn xóa bỏ những tàn tích phong kiến trong nền kinh tế miền Bắc nước ta. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta đã thu được tháng lợi to lớn, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc phong kiến. Chính Đảng Mác - Lênin chủ trương cách mạng không ngừng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành ở miền Bắc có ý nghĩa là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu. Nhiệm vụ cơ bản đặt ra trước mắt chúng ta là phải làm thế nào cải biến nền kinh tế có nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vận dụng một cách sáng tạo, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình và đặc điểm cụ thể của nước ta kết hợp chặt chẽ với hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hùng cường, Đảng ta đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân lao động đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội nói chung ở thời kỳ (1954 - 1960) nhất là biến đổi trong kinh tế ở thời kỳ này có vai trò và ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nói riêng và đối với cả nước nói chung, nó là giai đoạn mở đầu của sự nghiệp cách mạng mới ở miền Bắc - cách mạng xã hội chủ nghĩa và làm nhiệm vụ hậu phương lớn quyết định tiền tuyến miền Nam tiến tới 4 thống nhất cả nước. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng như vậy, vấn đề này cần được nghiên cứu một cách sâu rộng hơn trong thời kỳ mới. I - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1954. ........................................................................ 1. Khái quát cơ cấu kinh tế Miền Bắc trước cách mạng - Tháng Tám - 1945 Sau 80 năm bị đế quốc thống trị, Tháng Tám - 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước vùng lên làm cách mạng, giành được chính quyền trong cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sau khi làm cách mạng thành công, toàn dân ta phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước, mở mang kinh tế. Song, trước cách mạng, đế quốc và phong kiến bóc lột nhân dân ta , nền kinh tế nước ta hết sức nghèo nàn, kiệt quệ. Tuy vậy, khi cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu thì với sự giúp đỡ của đế quốc Anh ngày /09/1945 thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa . Nhân dân tiếp tục phải bắt tay vào thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Do bối cảnh trong lịch sử như vậy nền kinh tế thời kì này là nền kinh tế kháng chiến với những đặc điểm nổi bật: kinh tế diến ra ở hai khu vực, khu vực tự do và vùng chiếm đóng. Trong vùng do Đảng và chính phủ tiếp quản, tức vùng tự do, có thể thấy hầu hết là những nơi hẻo lánh, kinh tế nhèo nàn hơn, giao thông đi lại khó khăn. Kinh tế ở đây là nền kinh tế đóng, bị phong tỏa, không có sự tiếp xúc với bên ngoài chứ không phải có chủ trương " bế 5 quan tỏa cảng". Cho đến chiến dịch Biên Giới 1950, do những chiến dịch của địch, vùng kháng chiến bị cô lập hoàn toàn với bên ngoài. Vùng Pháp chiếm được, những ranh rới những cũng là chiến tuyến giữa ta và Pháp nên quan hệ kinh tế tại đây rất hạn chế. Do đó, có thể nói kinh tế kháng chiến là tự dựa vào bản thân là chính. Từ năm 1951, 1952, có quan hệ ngoại thương với Trung Quốc, nhưng không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế chung. Kinh tế chủ yếu là kinh tế tư nhân, nông nghiệp nằm trong tay nông dân với hình thức sản xuất nhỏ. Công nghiệp không nổi bật, chủ yếu là công nghiệp quốc phòng, phần lớn là sản xuất tiểu thủ công và thủ công để cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho đời sống. Thương nghiệp cũng nằm trong tay những người buôn bán nhỏ là chính. kinh tế mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Thị trường còn kém phát triển. Những thị trấn và phố xá không có vai trò quan trọng lắm về kinh tế. Mậu dịch quốc doanh từ khi thành lập cho tới khi kết thúc chiến tranh chủ yếu chỉ cung cấp cho khu vực nhà nước, chưa có khả năng cung cấp cho toàn dân. Thị trường bên ngoài gần như không có (trừ việc mua bán một số yếu phẩm cần thiết cho kháng chiến từ vùng Pháp chuyển ra). Thị trường nhỏ bé, và chủ yếu chỉ là thị trường thôn quê truyền thống. Đã thế, vùng kháng chiến dân không đông, nhu cầu rất thấp. Tùy theo các chiến dịch, dân số vùng kháng chiến xê xích trong vòng 5,7,10 triệu người. Phấn lớn dan cư đã quen sống khổ, cầu không lớn, sức mua rất kém. Như vậy, do chính sách cai trị của thực dân Pháp, cùng với tác động của chiến tranh làm cho kinh tế miền Bắc kiệt quệ. Cơ cấu kinh tế miền Bắc là sản xuất nông nghiệp lạc hậu; sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún; công nghiệp hầu hư không đáng kể. Cơ sở hạ tầng cực kỳ nghèo nàn. 6 Với chiến thắng Đông -Xuân (1953- 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã buộc thực dân Pháp phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, rút quân về nước, lập lại hòa bình trên cơ sở thừa nhận những chủ quyền chủ yếu của ba dân tộc Đông Dương, kết thúc thắng lợi sự nghiệp chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Do so sánh lực lượng và tình hình chính trị thế giới phức tạp lúc đó, theo hiệp định Giơ-ne-vơ đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam-Bắc với hai chế đọ chính trị khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội (NCXH), còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai thống trị. Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân trên cả nước còn chưa hoàn thành. Nhân dân miền Bắc vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiên tới thực hiện thống nhất nước nhà. Do đó, ngay khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc bắt tay ngay vào tiếp quản, thực hiện cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Lợi dụng 300 ngày chuyển quân tập kết theo quy định của hiệp định Giơ-ne-vơ, thực dân Pháp phối hợp với đế quốc Mỹ ra sức phá hoại miền Bắc. Chúng cài lại gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di tích lịch sử và văn hóa (như phá chùa Một Cột, cầu Phủ Lạng Thương, nhà máy điện Uông Bí...). Chúng vơ vét tài sản, vật tư, tháo rỡ máy móc thiết bị, mang theo hoặc hủy hoại hồ sơ, tài liệu hòng gây khó khăn cho ta trong việc kiểm kê, điều hành công việc và hoạt động này. Chúng đóng cửa nhà máy, hãng buôn, công sở, trường học làm cho sinh hoạt ở thành phố, thị xã bị 7 ngừng trệ. Chúng còn tung tin xuyên tạc, bôi nhọ chế độ miền Bắc, bịa đặt tin "chính phủ Việt Nam cấm đạo", " chúa đã vào Nam ".....để ra sức lôi kéo, dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng bào công giáo di cư vào Nam. Chúng ra sức lôi kéo các chuyên ra vào Nam. Lợi dụng nếp sống lạc hậu, mê tín dị đoan của đồng bào miền núi, chúng bịa ra việc " xưng vua ", " đón vua ", xúi giục đồng bào chống lại chính sách của chính phủ, bỏ sản xuất, gây mất trật tự an ninh. Nhân dân miền Bắc nhất là nhân dân các vùng sắp giải phóng, đã tiến hành các cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại âm mưu trên của địch. Phong trào đấu tranh bảo vệ máy móc, tài sản của công nhân đã diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Hàng nghìn cán bộ đảng viên và các đoàn thể quần chúng đac lăn lộn, đi sâu vào từng gia đình ở thành phố, thị xã, nông thôn để vận động quần chúng chống địch cướp phá tài sản, vận động binh lính người địch trong quân đội " liên hiệp Pháp " trở về với gia đình và chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Miền Bắc lần lượt được giải phóng. Việc tiếp quản vùng mới giải phóng, nhất là các thành thị hoàn toàn tốt đẹp. Ngày 16/5/1955 toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Sau khi tiếp quản xong574000 , dân số miền Bắc thay đổi không đáng kể so với thời kỳ trước (13.574.000 người) . Nhưng kinh tế thì lại gặp rất nhiều khó khăn. Hồ Chủ Tịch đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: " chiến tranh xâm lược của bọn thực dân đã làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, các công trình thủy lợi đều bị phá hủy, 1/4 số trâu bò bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy 8 móc bị tháo rỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường xá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. Ở thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe dọa khắp nơi ". Trong nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nặng nề: 1.430.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng vạn trâu bò bị giết hại, nông cụ bị đốt hủy, 8 công trình thủ nông lớn và nhiều công trình thủy nông vừa và nhỏ bị phá hủy. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp. Kỹ thuật canh tác thô sơ, thiên tai nặng nề. Sức kéo chủ yếu là trâu bò, nhưng thiếu nghiêm trọng do hàng vạn trâu bò bị giết trong chiến tranh. Những đồng bào công giáo bị dụ dỗ cưỡng ép di cư vào Nam đã để lại hàng chục nghìn ha ruộng đất bị bỏ hoang. Trên 1 triệu người bị đói, làng mạc bị đốt phá trơ trụi, xơ xác....Nông dân miền Bắc lúc này chỉ còn lại là một nền kinh tế sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu. Và trên thực tế nông nghiệp miền Bắc đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong sản xuất. Trong nông nghiệp, phần lớn nhà máy xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Hà Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản chỉ có nhà máy điện và nhà máy nước hoạt động. Sản lượng mỏ than Hồng Gai chỉ còn 986.000 tấn, giảm 40% so với năm 1939. Vài năm sau khi tiếp quản giá trị sản lượng công nghiệp còn rất thấp, chiếm chưa đầy 10% tổng số giá trị sản lượng công nông nghiệp. Trong giao thông vận tải mạch máu của nền kinh tế bị phá hủy nghiêm trọng. Hàng nghìn km đường sắt bị tàn phá, chỉ còn hơn 100 km tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng hoạt động; 3.500 cầu cống bị 9 phá hủy, phương tiện vận tải thiếu thốn, việc giao lưu giữa các vùng gặp nhiều khó khăn. Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới chỉ nắm được 40,5% khối lượng hàng hóa bán buôn và 22,5% hàng bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. II - Hoàn cảnh lịch sử. Năm 1954, hiệp định Giơnevơ bị đế quốc Mỹ phá hoại, cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc của Việt Nam bắt đầu. Từ vĩ tuyến 17 trở ra bắc (miền Bắc) Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân. Miền Bắc là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam thực hiện kháng chiến chống Mỹ. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai xây dựng nền kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa với yêu cầu trước mắt là phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới. Kinh tế - xã hội hai miền Nam, Bắc trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh. 10 Riêng về tình hình miền Bắc, thời kỳ này miền Bắc phấn đấu thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước. Sau khi tiếp quản miền Bắc, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bắt tay ngay vào xây dựng chế độ mới. Miền Bắc trong quá trình khôi phục, phát triển kinh tế đã tiến hành các kế hoạch ba năm lần thứ nhất (1955 - 1957), ba năm lần thứ hai (1959 - 1960) và năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã đưa kinh tế Miền Bắc bước vào một giai đoạn phát triển mới, từ một cơ cấu với nhiều thành phần kinh tế và tương ứng với nó có nhiều tầng lớp, giai cấp xã hội khác nhau thành một xã hội dựa trên nền tảng cơ cấu kinh tế toàn dân và tập thể, với hai giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Cơ cấu này chỉ thay đổi về tỷ lệ, thay đổi về cấu trúc trong thời kỳ Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc kể từ cuối năm 1964 . Chiến tranh và mô hình xây dựng miền Bắc tạo nên một cơ cấu kinh tế - xã hội đơn giản và phát triển không bình thường dưới ảnh hưởng của chiến tranh chống Mỹ, thống nhất nước nhà. Để hiểu hơn về sự phát triển kinh tế Việt Nam (1945 - 1975), chúng ta sẽ tìm hiểu từng giai đoạn nhỏ: giai đoạn (1945 - 1954) và giai đoạn (1954 - 1960) và (1961 - 1975). Từ đây, ta sẽ thấy được những khía cạnh cơ bản nhất, nổi bật nhất trong sự phát triển kinh tế miền Bắc từ khi nước ta giành được độc lập từ tay thực dân Pháp, đến Đại thắng mùa xuân 1975. Trọn ven một khúc tráng ca về lịch sử kháng chiến chống xâm lược và xây dựng đất nước (1945 - 1975) II - Vài nét về kinh tế - xã hội miền Bắc khi tiếp quản. Sau tháng 7/1954, miền Bắc có 13 triệu người trong đó có khoảng 12 triệu sống ở vùng nông thôn và gần 1 triệu người khác cư trú ở địa bàn đô thị. Vung đồng bằng Bắc Bộ có dân số đông nhất, hơn tám triệu người. Cư dân thành thị sống tập trung ở Hà Nội và Hải Phòng. Miền Bắc cũng có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, nhưng đông nhất vẫn là người Kinh chiếm 85% dân số, cư trú tập trung đông nhất ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng khu IV, sau đó là các dân tộc khác như Tày, Mường, Thái, Nùng... 11 Về mật độ dân số miền Bắc trong khoảng thời gian này, theo như khảo sát 2 thì là khoảng 85 người trên 1km . Nơi có mật độ dân số cao nhất là đồng bằng Bắc Bộ , trên 400 người trên 1 km. Trong khi đó ở các vùng miền núi, ví dụ điển hình nhất là các tỉnh thuộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc dân cư thưa thớt: Bắc Cạn có 16 người trên 1 km2, khu tự trị Thái Mèo chỉ có 13 người trên 1km2. Về lực lượng công nhân ở miền bắc, bên cạnh lực lượng làm việc trong các xí nghiệp của Pháp, còn có một lực lượng khá đông đảo sản xuất trong khu vực của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa . Lực lượng công nhân, viên chức đã tăng đáng kể sau khi cách mạng Tháng Tám thành công và dần phát triển theo thời gian. Đến thời điểm đó nước ta đã có những lực lượng sản xuất thuộc các ngành nghề khác nhau, cùng cố gắng vì một ngày mai độc lập và thống nhất đất nước. Như vậy, tình hình kinh tế miền Bắc cũng đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định, điều đó đòi hỏi sự đồng lòng góp sức của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Đó là cơ sở vững chắc nhất cho miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đồng thời làm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam làm nhiệm vụ trực tiếp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể nói việc "tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà". Còn cách mạng Miền Nam thì "trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở Miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng Miền Nam". IV - Đ
Luận văn liên quan