Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được rõ rằng tăng trưởng kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao vị thế của nước nhà trên trường quốc tế. Trong những thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế không chỉ đặt ra ở những nước đang phát triển mà còn đối với cả những nước phát triển.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cũng không đứng ngoài xu hướng này. Năm 2011 đã trôi qua, dư âm của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã có tác động khá rõ nét đối với nền kinh tế và xã hội Việt Nam, đặc biệt là khu vực Tài chính ngân hàng. Âm thầm, lặng lẽ nhưng cuộc chạy đua lãi suất tiết kiệm tiền đồng giữa các ngân hàng để huy động vốn trong năm 2011 diễn ra vô cùng quyết liệt, trong đó có sự tham gia của cả các ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, ngân hàng mới thành lập và cả những ngân hàng đã có uy tín hoạt động nhiều năm. Lãi suất là một biến số phức tạp không những về kỹ thuật tính toán, mà còn cả về vấn đề xác định những nhân tố ảnh hưởng, dự báo và hoạch định chính sách lãi suất. Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hằng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của cá nhân như chi tiêu, để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiền vào một tài khoản nhất định. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp như: dùng tiền để đầu tư mua trang thiết bị mới cho các nhà máy hoặc bỏ vào tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất được coi là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Và đó cũng chính là những lí do khiến em quyết định lựa chọn đề tài: ”Tác động của lãi suất tại Việt Nam trong năm 2011 dự báo xu hướng biến động của lãi suất trong năm 2012”.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tác động của lãi suất tại Việt Nam trong năm 2011 dự báo xu hướng biến động của lãi suất trong năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được rõ rằng tăng trưởng kinh tế là một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao vị thế của nước nhà trên trường quốc tế. Trong những thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế không chỉ đặt ra ở những nước đang phát triển mà còn đối với cả những nước phát triển.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cũng không đứng ngoài xu hướng này. Năm 2011 đã trôi qua, dư âm của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã có tác động khá rõ nét đối với nền kinh tế và xã hội Việt Nam, đặc biệt là khu vực Tài chính ngân hàng. Âm thầm, lặng lẽ nhưng cuộc chạy đua lãi suất tiết kiệm tiền đồng giữa các ngân hàng để huy động vốn trong năm 2011 diễn ra vô cùng quyết liệt, trong đó có sự tham gia của cả các ngân hàng nhỏ và ngân hàng lớn, ngân hàng mới thành lập và cả những ngân hàng đã có uy tín hoạt động nhiều năm. Lãi suất là một biến số phức tạp không những về kỹ thuật tính toán, mà còn cả về vấn đề xác định những nhân tố ảnh hưởng, dự báo và hoạch định chính sách lãi suất. Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hằng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của cá nhân như chi tiêu, để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiền vào một tài khoản nhất định. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp như: dùng tiền để đầu tư mua trang thiết bị mới cho các nhà máy hoặc bỏ vào tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất được coi là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Và đó cũng chính là những lí do khiến em quyết định lựa chọn đề tài: ”Tác động của lãi suất tại Việt Nam trong năm 2011 dự báo xu hướng biến động của lãi suất trong năm 2012”.
Trong Tiểu luận này chúng em sẽ trình bày rõ những biến động của lãi suất trong năm qua, nguyên nhân của sự biến động ấy. Trên cơ sở đó chúng em xin được đưa ra một số dự báo về tình hình lãi suất trong năm 2012 kết hợp với ý kiến của một số chuyên gia kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp để thực hiện những mục tiêu trên.
Mặc dù có nhiều cố gắng song Tiểu luận của chúng em không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để Tiểu luận của chúng em ngày càng hoàn thiện.
Xin chân thành cảm ơn!
Những vấn đề cơ bản về lãi suất.
Định nghĩa.
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng hay năm).
Đặc điểm.
Không biểu diễn dưới dạng số tuyệt đối, biểu diễn dưới dạng tỷ lệ phần trăm (%).
Hình thành trên cơ sở giá trị sử dụng.
Có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của các chủ thể kinh tế.
Phân loại.
Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại lãi suất. Cụ thể là:
Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng:
Lãi suất tiền gửi ngân hàng: là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng.
Lãi suất tín dụng ngân hàng: lãi suất màn người đi vay phải trả cho ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của ngân hàng.
Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này.
Lãi suất liên ngân hàng: lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy các nước nhưng hầu hết đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
Căn cứ vào giá trị của tiền lãi.
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị của tiền tệ.
Lãi suất thực: Là lãi suất được điều chỉnh lại theo đúng những thay đổi về lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Lãi suất thực trả.
Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất.
Lãi suất cố định: là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn vay.
Lãi suất thả nổi: là lãi suất được quy định có thể thay đổi theo lãi suất thị trường trong thời hạn tín dụng.
Căn cứ vào loại tiền cho vay.
Lãi suất nội tệ: lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ.
Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ.
Căn cứ vào nguồn tín dụng.
Lãi suất trong nước hay lãi suất địa phương: là lãi suất áp dụng cho các hợp đồng tín dụng trong nước, trong một quốc gia.
Lãi suất quốc tế: là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất.
Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung và cầu vốn.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung vốn.
Tài sản và thu nhập
Lợi tức dự tính
Rủi ro
Tính lỏng
Nhóm các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu vốn.
Khả năng sinh lời dự tính của các cơ hội đầu tư.
Lạm phát dự tính
Tình hình ngân sách chính phủ
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền:
Thu nhập
Mức giá
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Tác dụng tính lỏng
Tác dụng thu nhập
Tác dụng mức giá
Tác dụng lạm phát dự tính.
Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế vi mô
Tác động vi mô
Lãi suất là cơ sở để cá nhân và doanh nghiệp đưa ra các quyết định của mình như:
Chi tiêu hay để dành tiết kiệm.
Đầu tư, mua sắm các trang thiết bị cần thiết hay cho vay hoặc gửi ngân hàng.
Tác động vĩ mô.
Trong quá trình huy động vốn.
Lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình huy động vốn. Lãi suất phải nhằm bảo đảm nguyên tắc: bảo toàn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích lũy cho cả người vay và người đi vay.
Lãi suất với quá trình đầu tư.
Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Lãi suất với lạm phát
Lãi suất và phân bổ nguồn lực.
Vai trò của lãi suất đối với các ngân hàng thương mại.
Biến động của lãi suất trong năm 2011: Thực trạng, nguyên nhân, giải pháp.
Thực trạng lãi suất Việt Nam năm 2011.
Bước sang năm 2011 lãi suất tiếp tục lên ở mức rất cao, lãi suất cho vay tiêu dùng đã lên tới 25-30%, còn lãi suất cho vay sản xuất cũng quanh mức 20% trong 2 tháng đầu năm. Mặc dù lãi suất cao như vậy nhưng dưới sức ép của lạm phát cao Ngân hàng nhà nước (NHNN) vẫn buộc phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ. NHNN đã hạ mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ mức 23% xuống còn dưới 20%, tăng trưởng cung tiền cũng được điều chỉnh giảm 15-16%.
Để thực hiện mục tiêu trên ngày 08/03/2011, NHNH ban hành quyết định tăng lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm lên 12%. Mức lãi suất tái chiết khấu chỉ còn kém 1% so với mức đỉnh 13% của thời kỳ ”siêu lạm phát” năm 2009.Cùng với việc nâng lãi suất chính sách, chỉ trong vòng tháng 2 và tháng 3 vừa qua NHNN đã hút về gần 80 nghìn tỷ đồng trên thị trường mở.
Ngoài ra, NHNN vừa ban hành Thông tư 02 trong đó luật hóa trần huy động lãi suất 14%. Điều này đã gây khó khăn cho rất nhiều ngân hàng nhỏ khi huy động vốn trên thị trường. Thực tế thể hiện qua việc các ngân hàng lại ”chạy đua” tăng lãi suất không kỳ hạn và lãi suất ngắn hạn 1-2 tuần lên gần bằng mức trần. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng lên cơn sốt. Lãi suất qua đêm cao hơn các kỳ hạn dài hơn và có những giao dịch lãi suất đã vượt mức 20%.
Bất chấp lãi suất cao và căng thẳng trên thị trường tiền tệ NHNN đang cân nhắc quyết định tăng dự trữ bắt buộc. Hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng nội tệ chỉ là 1 và 3%, với mức kỳ hạn là trên và dưới 12 tháng, đây là mức rất thấp so với khoảng thời gian trước đó. Đối với ngoại tệ, ngày 09/03/2011, NHNN vừa quyết định nâng dự trữ bắt kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn trên 12 tháng từ 2% lên 4%.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là với quy định Thông tư 13, các tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng không quá 80% số vốn huy động thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực tế cao hơn rất nhiều so với con số chính thức trên.
Theo Reuters, 372,000 tỷ đồng là tổng số tiền huy động của toàn hệ thống ngân hàng đến tháng 7/2011, trong đó huy động trong 7 tháng năm 2011 là 35,600 tỷ đồng. Tuy nhiên 80% nguồn vốn huy động được cho vay chỉ áp dụng đối với nguồn vốn từ thị trường 1 (huy động từ dân cư), các NHTM có thể đã lách quy định bằng cách tăng cường vay nợ trên thị trường lien ngân hàng với kỳ hận trên 3 tháng để bổ sung 20% nguồn vốn này, hay nói cách khác nguồn vốn huy động từ thị trường 1 đã không bị trích dự phòng 20%. Do vậy, mặc dù bị giới hạn mức tỷ lệ 25% từ nguồn vốn từ các Tổ chức tín dụng thấp hơn nhưng với lãi suất thấp hơn, các NHTM đẩy mạnh sử dụng vốn liên ngân hàng để thay thế và do đó thực tế tỷ lệ cho vay/ nguồn vốn huy động từ dân cư của các NHTM là 100%.
Đồ thị tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng
Qua đồ thị thể hiện tỷ lệ huy động vốn giữa các ngân hàng, chúng ta có thể thấy thế thượng phong đang thuộc về các ngân hàng lớn, đã có uy tín hoạt động nhiều năm, và có thể coi là “đại gia” trong ngành ngân hàng Việt Nam. Chỉ riêng 7 ngân hàng này đã chiếm 77,61% tỷ lệ vốn được huy động trong năm qua. Theo số liệu cập nhật đến cuối năm 2011, Việt Nam có tất cả 62 ngân hàng dưới tất cả các hình thức. Như vậy 55 ngân hàng còn lại chiếm tỷ lệ huy động vốn chỉ là 22,39%, chưa bằng ngân hàng có tỷ lệ huy động vốn lớn nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (26, 09%). Các ngân hàng có tỷ lệ huy động vốn lớn tiếp theo lần lượt là Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV (14,21%), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam VCB (13,66%), Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam Vietinbank (10,58%), Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu ACB (5,59%), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín Sacombank (4,01%) và Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Techcombank (3,47%).
Nguyên nhân:
Trên các góc độ khác nhau có rất nhiều cách giải thích cho diễn biến tăng lãi suất gần đây của khu vực ngân hàng. Các cách giải thích khác nhau dẫn đến các chính sách khác nhau và các cách ứng xử khác nhau trên cả vĩ mô và vi mô...
Trong nước:
Cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng thương mại chưa vững chắc.
Phần lớn vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng là từ nguồn tiền gửi của các tổ chức và tiền tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm tuy phải trả lãi suất cao hơn nhưng có ưu điểm là nguồn này có tính ổn định, vững chắc.
Bên cạnh đó, tiền gửi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng công ty lớn (từ hàng chục đến hàng ngàn tỷ đồng) cũng đều là nguồn vốn không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, bất cứ lúc nào cũng bị rút đột ngột.
Một chi nhánh ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội có hơn 3.000 tỷ vốn huy động, trong đó 1.000 tỷ là tiền gửi ngắn hạn của một Tổng công ty nhà nước. Ngân hàng này luôn nơm nớp lo vì lí do nào đó Tổng công ty này rút số tiền trên thì lập tức nguồn vốn huy động của chi nhánh này giảm 1/3 và hậu quả của nó đối với việc cân đối vốn thì ai cũng rõ.
Chất lượng thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn còn là một mối quan ngại thường trực trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng bất thường trong những năm qua và chức năng quản lí rủi ro vẫn còn tương đối yếu.
Thu hút kiều hối về nước.
Bên cạnh đó, để thu hút nguồn kiều hối về nước, các ngân hàng cũng đồng loạt tăng lãi suất ngoại tệ. Với khoảng hơn 9 tỷ USD kiều hối được chuyển về trong năm 2011, Việt Nam là một trong 10 quốc gia nhận nhiều kiều hối nhiều nhất thế giới.
Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh.
Chúng ta đều biết tiền gửi là đầu vào sống còn cho các ngân hàng. Trong giới ngân hàng có câu: “Ai có nguồn vốn lớn, người ấy chiếm lĩnh thị trường”.
Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn là rất gay gắt. Một số ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cho biết tại thời điểm này tuy không thiếu vốn nhưng họ vẫn phải tăng lãi suất huy động vì sợ khách hàng rút tiền sang các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn.
Phó Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần nói: “Qua theo dõi tình hình hiện nay, tôi thấy cứ chi nhánh nào có nguồn tiền gửi từ tổ chức kinh tế xã hội và dân cư lớn thì chi nhánh đó đỗ lãi vì lãi suất huy động cao, cho vay lại khó khăn, vốn thừa vẫn phải trả lãi cho tiền gửi. Nhưng tính chung cả hệ thống thì chúng tôi vẫn phải tăng lãi suất vì sự sụt giảm tiền gửi không những hoạt động tín dụng trở nên bấp bênh mà còn mất khách hàng với những nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng.
Quan sát hành vi đầu tư hiện nay cho thấy, người dân Việt Nam đã khá nhạy cảm với lạm phát. Nếu có dấu hiệu lạm phát, nhiều người sẽ rút tiền ngân hàng đi mua vàng, mua USD. Ngân hàng thương mại cũng tham chiếu chỉ số lạm phát dự tính để quyết định mức lãi suất cho vay. Khi đó lạm phát dự tính (hoặc khuynh hướng lạm phát) sẽ quyết định lãi suất ở khu vực ngân hàng. Tính toán gần đây của một số chuyên gia cho rằng khi lạm phát năm 2010 là 8 - 9% thì lãi suất huy động ít nhất phải là 12% và như vậy lãi suất cho vay khoảng từ 15% trở lên chưa tính đến các yếu tố rủi ro khác.
Bù đắp rủi ro cho hoạt động tín dụng.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, rủi ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể hiện trên bảng cân đối của các ngân hàng thương mại phần lớn dưới mức 5%/tổng dư nợ, nhưng các khoản nợ nhóm 2 (các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ quá cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong thời hạn nợ đã cơ cấu lại…) đang có xu hướng tăng. Một vài ngân hàng thương mại Nhà nước tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 đã trên mức 20% tổng dư nợ cho vay.
Theo phản ánh của một số ngân hàng, các khoản cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước đang có dấu hiệu tiếp tục tăng do khối xây dựng, giao thông đã hết thời hạn cơ cấu lại nợ nhưng vẫn không thanh toán được nợ. Nợ xấu cũng xuất hiện tại một số doanh nghiệp xuất khẩu nhạy cảm với những biến động của thị trường. Bên cạnh đó nợ đọng cho vay trong lĩnh vực bất động sản cũng không phải là ít.
Tình hình này cũng có thể là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng tiếp tục tăng cường thu hút tiền gửi để bù đắp phần vốn đang nợ đọng và đảm bảo khả năng thanh khoản của mình.
Thế giới:
Khu vực ngân hàng Việt Nam ở trong thế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường tài chính toàn cầu, hoặc trực tiếp qua kênh khủng hoảng nợ của một số quốc gia châu Âu, hoặc trực tiếp thông qua kênh suy thoái kinh tế. Nợ xấu của khu vực ngân hàng châu Âu và Trung Á đã gia tăng mạnh mẽ sau khi tốc độ phát triển kinh tế trở nên xấu đi trong năm 2008 và 2009.
Ngoài ra việc tiếp cận các nguồn vốn từ bên ngoài cũng đang trở nên khó khăn hơn, lí do này khiến các ngân hàng phải tìm mọi cách để huy động nguồn tiền từ trong nước. Và điều đó khiến họ phải đồng loạt gia tăng lãi suất huy động tiền gửi.
Giải pháp.
Việc áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ kéo dài cộng với những biến động trong và ngoài nước gần đây đang gây áp lực cho hệ thống ngân hàng. Nhiều biện pháp hành chính vẫn tiếp tục được sử dụng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ và chính các biện pháp hành chính này lại là gánh nặng cho hệ thống ngân hàng. Nhiều ngân hàng đang trong tình trạng thiếu thanh khoản, và tình trạng thiếu vốn vẫn là một vấn đề nổi cộm của hệ thống ngân hàng. Chất lượng tài sản danh mục đầu tư cũng vấn là mối quan ngại lớn do tăng trưởng tín dụng cao bất thường trong những năm qua, lãi suất cho vay tăng, và năng lực quản lí rủi ro của hệ thống ngân hàng tương đối yếu.
Một kế hoạch hành động nhằm tái cơ cấu và kiện toàn hệ thống ngân hàng hiện đang được soạn thảo. Năng lực của Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng đã được nâng lên đáng kể nhờ các hoạt động hỗ trợ kĩ thuật. Một bước đi quan quan trọng hướng tới hệ thống ngân hàng minh bạch hơn là ban hành thông tư về tăng cường công bố thông tin nhằm cải thiện công tác phổ biến thông tin vầ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Vấn đề tái cơ cấu và kiện toàn khu vực ngân hàng đang được tích cực thảo luận và chính phủ đang xây dựng một kế hoạch hành động nhằm giải quyết các thách thức kể trên. Nhiều định chế tài chính có quy mô nhỏ, hoạt động ở thành thị và có tốc độ tăng trưởng danh mục cho vay rất cao. Mặc dù đã hỗ trợ cho các ngân hàng yếu thông qua tăng thêm thanh khoản, song Ngân hàng Nhà nước cũng có ý cho biết rằng có thể sẽ phải có những động thái kiện toàn lại nếu như các ngân hàng yếu kém hoạt động không tuân thủ theo đúng quy định hiện hành.
Chính phủ cũng đang nỗ lực củng cố khuôn khổ thanh tra, giám sát và thực thi tốt các quy định của ngành tài chính. Công tác thanh tra giám sát ngân hàng đã được các đối tác phát triển chú trọng hỗ trợ trong năm vừa qua, và năng lực của Cơ quan Thanh tra Giám sát Ngân hàng (BSA) đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, việc thực thi giám sát vẫn còn yếu và cần được tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với Luật về các tổ chức tín dung (2010). Việc lệ thuộc vào các biện pháp hành chính vẫn còn phổ biến và sẽ phải giảm dần để nhường chỗ cho các cơ chế dựa vào thị trường.
Một bước đi quan trọng là hướng đến một môi trường minh bạch hơn của hệ thống ngân hàng là đi đến việc công khai và cung cấp thông tin của ngân hàng trung ương. Đó là khởi đầu tốt nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa để các báo cáo và quy trình công khai như vậy tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế. Trong các năm tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục tăng cường tính minh bạch thông qua việc công khai thêm các chỉ số lành mạnh tài chính (FSIs) và các số liệu thống kê khác về toàn ngành ngân hàng (và của từng ngân hàng) như các nước láng giềng trong khu vực.
Chính sách tiền tệ của Việt Nam cần được bổ sung bằng một loạt các biện pháp hành chính, như hạn chế cho vay bằng ngoại tệ, quy định trần lãi suất huy động, tiền đồng và đô-la, và kiểm soát việc mua bán ngoại tệ. Các biện pháp này có thể giải quyết một số bất ổn vĩ mô trước mắt.
Dự báo biến động của lãi suất Việt Nam trong năm 2012.
Trước những biến động và tác động lớn của tình hình lãi suất năm 2011 đến hoạt động, sản xuất, đầu tư của các cá nhân, doanh nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế Việt Nam nói chung, để nắm thế chủ động và có sự chuẩn bị tốt cho các bước đi của doanh nghiệp trong năm 2012, đã có rất nhiều ý kiến phân tích để dự báo về tình hình lãi xuất 2012. Sau đây là một số ý kiến dự báo và cơ sở đưa ra dự báo đó:
Lãi suất năm 2012 sẽ giảm:
Có thể nói tình hình lãi suất ở Việt Nam trong năm 2012 sẽ phụ thuộc vào tình hình kinh tế Việt Nam nhưng các chuyên gia đều thống nhất rằng chắc chắn lãi suất sẽ giảm, mức giảm nhanh hay chậm tùy thuộc vào sức khỏe của nền kinh tế. Lí do đưa ra cho dự báo này là nếu lãi suất ở mức quá cao thì các doanh nghiệp cũng như người nông dân cần vốn sẽ không tiếp xúc được với vốn, tình hình sản xuất trì trệ và phá sản hay ngừng hoạt động trở thành một kết quả tất yếu. Khi doanh nghiệp sụp đổ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn, vì 70% vốn của doanh nghiệp là từ ngân hàng, và số vốn đó cũng chính là vốn đầu tư sinh lợi chủ đạo của ngân hàng. Vậy thì nền kinh tế Việt Nam liệu có sống được không khi hệ thống doanh nghiệp và ngân hàng ốm yếu, đổ vỡ. Câu trả lời chắc chắn sẽ là không. Vì vậy các ngân hàng hết lí do để trì hoãn giảm lãi suất.
Thêm vào đó, theo chiều hướng năm 2011, Việt Nam đã mất giá trị tại thị trường nội địa gần19% nhưng mất giá so với USD khoảng 12%; điều này chứng tỏ so với USD, tỉ giá thực của VND đang được đánh giá cao,chứ không phải thấp, vì vậy chúng ta có thể tin rằng lạm phát có thể giảm và lãi suất cũng có thể giảm. Thêm vào đó, nước ta đang thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mà một trong những mối nguy hại hàng đầu của ngân hàng là tình hình nợ xấu. Một khi lãi suất giảm, các ngân hàng muốn có vốn để duy trì hoạt động thì việc hạ lãi suất huy động là biện pháp không khả quan, vậy các ngân hàng phải làm gì. Một trong những cách tốt nhất mà các ngân hàng lựa chọn đó là đẩy nhanh thu hồi nợ xấu, - một mục tiêu mà nhà nước cũng như các ngân hàng luôn hướng tới. Việc hạ lãi suất được coi như là một cứu cánh cho các doanh nghiệp cũng như ch