Trong bối cảnh kinh tếthếgiới hiện nay, hội nhập là xu hướng tất y ếu
khách quan. Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật ấy, chúng ta đang từng
bước phát triển. Đại hội IX đã đềra mục tiêu phát triển kinh tếxã hội 10 năm
2001- 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành m ột nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người; năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạtầng; tiềm lực
kinh tế, an ninh quốc phòng được tăng cường; thểchếkinh tếthịtrường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao. Nhưchúng ta đã biết vào ngày 07/11/2006 Việt
Nam đã chính thức trởthành thành viên thứ150 của tổchức thương mại thếgiới
WTO. Điều này thểhiện một nỗlực rất lớn của chúng ta trong việc chứng minh
khảnăng phát triển kinh tếcủa mình với thếgiới và cũng mởra một hướng mới
cho kinh tếnước nhà. Trong một môi trường cạnh tranh kinh tếtoàn cầu khốc
liệt nhưhiện nay, Việt Nam không chỉmuốn tồn tại mà còn muốn đứng vững và
phát triển. Hoạt động đầu tưlà yếu tốrất quan trọng trong việc phát triển nềkinh
tếnước ta.
64 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2829 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của M&A xuyên quốc gia và Bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI “Tác động của M&A xuyên quốc
gia&Bài học cho VIỆT NAM.”
Trang 1
Trang 2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, hội nhập là xu hướng tất yếu
khách quan. Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật ấy, chúng ta đang từng
bước phát triển. Đại hội IX đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 10 năm
2001- 2010 nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người; năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng; tiềm lực
kinh tế, an ninh quốc phòng được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao. Như chúng ta đã biết vào ngày 07/11/2006 Việt
Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO. Điều này thể hiện một nỗ lực rất lớn của chúng ta trong việc chứng minh
khả năng phát triển kinh tế của mình với thế giới và cũng mở ra một hướng mới
cho kinh tế nước nhà. Trong một môi trường cạnh tranh kinh tế toàn cầu khốc
liệt như hiện nay, Việt Nam không chỉ muốn tồn tại mà còn muốn đứng vững và
phát triển. Hoạt động đầu tư là yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển nề kinh
tế nước ta.
Ở đề án này tôi xin tập trung phân tích một hình thức của đầu tư trực tiếp
nước ngoài là hoạt động mua lại và sáp nhập (M&As). Đây là một hình thức
chúng ta cần tìm hiểu thật kĩ bởi trên thế giới hoạt động M&As đang diễn ra rất
mạnh mẽ. Thêm nữa khi các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành cổ phần hóa thì
M&As không còn trở nên xa lạ với chúng ta nữa. Trong thời gian tới chắc chắn
sẽ có nhiều doanh nghiệp của nước ta thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện việc mua lại và sáp nhập.
Trang 3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi mà tôi muốn hướng tới ở đây là hoạt động M&As
trên thế giới và Việt Nam
Kết cấu đề tài:
Bài tiểu luận của tôi gồm có những phần chính sau đây:
Chương I: Tác động của hoạt động mua lại và sáp nhập xuyên quốc
gia:Những vấn đề lí luận chung
Chương II : Kinh nghiệm từ hoạt động mua lại và sáp nhập xuyên
quốc gia trong một số trường hợp thế giới.
Chương III: Gỉai pháp đối với hoạt động mua lại và sáp nhập xuyên
quốc gia trông bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế VIỆT NAM .
Trang 4
Chương I. TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG MUA LẠI&SÁP NHẬP
XUYÊN QUỐC GIA :NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ MUA LẠI& SÁP NHẬP
1. Khái niệm
M (merger) là sự kết hợp hoặc sáp nhập của các công ty tổ chức
nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh hoặc nhằm giảm tính cạnh
tranh. Kết quả là sẽ tạo ra một công ty mới trong đó mỗi bên sẽ có
cổ phần bằng nhau (nên người ta còn gọi là merger of equals).
Thông thường các vụ sáp nhập thường được thực hiện dựa trên tinh
thần thiện chí, tự nguyện khi mà lãnh đạo hai bên cùng họp nhau lại
và bàn bạc đưa ra những phân tích cụ thể về những lợi ích, cơ hội
hoặc rủi ro khi tiến hành sáp nhập (thuật ngữ chuyên môn gọi là
(due diligence report) . Từ đó sẽ có quyết định cuối cùng.
A (acquisition) là quá trình mua cổ phiếu hoặc tài sản một công ty
để dần tiến tới chiếm đoạt công ty đó. Do đó khác với sáp nhập ,
mua lại thường xảy ra giữa hai công ty không ngang nhau về tiềm
lực tài chính, 1 công ty lớn mua lại một công ty nhỏ hơn bằng tiền
mặt, cổ phiếu hoặc kết hợp cả hai .
Dựa vào hai khái niệm được cung cấp bởi tổ chúc tiền tệ thế giới IMF , ta
có thể hiểu được M&A là gì. Tuy nhiên có một điểm cần chú ý về thuật ngữ ở
đây là M&A là chỉ sự sáp nhập hoặc mua lại nói chung của hai công ty , có thể
là trong nước hoặc cũng có thể là 1 công ty nước ngoài và 1 công ty trong nước
hoặc của hai công ty nước ngoài. Còn nếu xét M&A như một hình thức đầu tư
nước ngoài thì ngưới ta thường dùng cụm Cross border M&A chỉ sự sáp nhập và
mua lại giữa hai công ty trong đó nhất quyết phải có 1 bên là công ty nước
ngoài .
Trang 5
Phiên họp ủy viên của Ủy ban Thương Mại & Phát Triển quyết định vào
ngày 12 tháng 5 năm 2000 triệu tập một cuộc họp các chuyên gia ở Geneva về
vấn đề “Mua lại&sáp nhập: Những chính sách nhằm mục đích tối đa hóa những
ảnh hưởng tích cực và tối thiểu hóa những ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư quốc
tế”. Cuộc họp này là một phần trong những nỗ lực của UNCTAD để giúp cải
thiện sự hiểu biết về những vấn đề chủ chốt trong những lĩnh vực của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), và những ảnh hưởng của FDI đến sự phát triển và những
chọn lựa chính sách, đặc biệt khi họ liên kết với những nước đang phát triển &
những nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, và để củng cố những khả
năng của các quốc gia đưa ra và thực hiện các chính sách, những biện pháp hành
động và các chương trình.
Hầu hết các nước tìm mọi cách để thu hút FDI, đặc biệt là khi FDI tồn tại
dưới dạng đầu tư trực tiếp vào nhà xưởng máy móc, bởi vì những nguồn đầu tư
như vậy có thể đóng góp cho sự phát triển kinh tế. Như là một phần hệ quả trong
những nỗ lực nhằm thu hút FDI, mua lại và sáp nhập (M&As) trở nên phổ biến
hơn trước đây như là một cách thức thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNCs) vào các nước đang phát triển cũng như các nền kinh tế đang trong giai
đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, có một câu hỏi nảy sinh liệu rằng M&As, trái với
đầu tư mới có thể có vai trò trong việc đóng góp vào quá trình phát triển hay
không. M&As được xem là khác với đầu tư mới, chúng không thêm vào khả
năng sản xuất quốc gia mà chỉ đơn thuần đại diện cho 1 sự chuyển quyền sở hữu
từ nội địa ra nước ngoài. Thêm nữa, M&As đôi khi còn được xem như là đã lấy
đi những tài sản quốc gia đáng giá của nước nhận đầu tư tạo ra bởi tiết kiệm
trong nước, nỗ lực về lao động và thầu khoán, và như là đã có được tiềm lực để
tạo ra một loạt vấn đề, ví dụ như sự tập trung thị trường và lạm dụng quyền lực
thị trường. Thực sự, M&As xuyên quốc gia , đặc biệt là những hoạt động có
liên quan đến những tập đoàn xuyên quốc gia lớn từ các nước phát triển, các
hoạt động tài chính và tái tổ chức kinh tế, nằm trong số những khía cạnh dễ thấy
nhất của quá trình toàn cầu hóa. Và ảnh hưởng của M&As tới sự phát triển có
thể mang tính hai mặt. Vì vậy những mối lợi tức xuất hiện như là sự cân bằng
Trang 6
của lợi ích và chi phí cho những nền kinh tế nhận đầu tư FDI trong hình thức
của mua lại và sáp nhập xuyên quốc gia (trong sự so sánh với đầu tư trực tiếp
nước ngoài GI hay còn gọi là đầu tư mới).
Hoạt động mua lại và sáp nhập là một phần quan trọng của đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Một tập đoàn có thể đầu tư trực tiếp vào nước sở tại dưới
hai hình thức: đầu tư trực tiếp vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị mới hoặc mua
lại / sáp nhập với các công ty địa phương (bản xứ). Công ty địa phương có thể
của tư nhân hoặc nhà nước: tư nhân hoá liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài
được xếp vào hoạt động M&A xuyên quốc gia. Hoạt động này thay đổi hệ thống
quản lý của công ty mới được mua lại hoặc sáp nhập. Trong hoạt động sáp nhập
xuyên quốc gia, 2 công ty thuộc 2 nước liên quan sẽ kết hợp tài sản và hoạt động
hành chính để tạo ra 1 công ty độc lập hợp pháp mới. Trong hoạt động mua lại
xuyên quốc gia, quyền quản lý tài sản và hoạt động hành chính được chuyển
giao từ công ty địa phương sang cho một tập đoàn nước ngoài, công ty địa
phương trở thành chi nhánh của tập đoàn nước ngoài.
Trong một chừng mực nào đó, cả hai hình thức của FDI đều chuyển giao
tài sản của nước sở tại sang quyền quản lý của các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNCs - Transnational Corporations), góp phần tạo ra tăng trưởng cho hệ thống
sản xuất toàn cầu. Cả 2 trường hợp đều trao quyền quản lý một doanh nghiệp tại
một quốc gia cho một doanh nghiệp tại một quốc gia khác. Tuy nhiên, trong
trường hợp đầu tư trực tiếp vào nhà xưởng, tài sản mới được tạo ra bởi tập đoàn
đầu tư còn hoạt động M&A chỉ chuyển giao quyền quản lý nguồn tài sản có sẵn.
Các định nghĩa thông dụng với FDI cũng được sử dụng tương tự với
M&A. Quốc gia có nguồn vốn đầu tư, muốn sáp nhập/mua lại được gọi là nước
đầu tư, quốc gia được nhận vốn đầu tư được gọi là nước nhận đầu tư. Trong
trường hợp sáp nhập, văn phòng chính của công ty mới có thể được đặt tại cả 2
nước. Mua lại có 3 hình thức:
- Thiểu số (tập đoàn nước ngoài giữ từ 10 đến 49% số cổ phiếu của công ty)
- Đa số (tập đoàn nước ngoài giữ từ 50 đến 99% số cổ phiếu của công ty)
Trang 7
- Chủ quyền hoàn toàn (tập đoàn nước ngoài chiếm 100% cố phiếu của công
ty)
Số liệu về M&A cho thấy hoạt động mua lại chiếm đa số. Sáp nhập chỉ
chiếm 3% trong tổng số hoạt động M&A xuyên quốc gia. Trên thực tế, mặc dù
định nghĩa của sáp nhập là sự hợp tác quản lý giữa 2 công ty, hầu hết các hoạt
động sáp nhập đều trở thành mua lại khi 1 trong 2 công ty nắm quyền quản lý
công ty còn lại. Tỷ lệ hoạt động sáp nhập thật quá thấp đến mức M&A chỉ còn
được hiểu hoàn toàn là “mua lại”.
Một phần trong hệ quả của cố gắng thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp
(FDI) là sự gia tăng của M&A xuyên quốc gia vì đây là cửa mở cho các công ty
xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển cũng như góp phần vào sự phát
triển kinh tế của các nước nói trên. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu M&A có thể
đóng góp vào quá trình phát triển như đầu tư mới (GI) hay không? M&A được
nhìn dưới một góc độ khác so với đầu tư trực tiếp bởi tại thời điểm ban đầu, hoạt
động này không làm tăng năng suất sản xuất quốc gia mà chỉ là sự chuyển giao
quyền sở hữu trong nước cho nước ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá nói
chung, ảnh hưởng của M&A với sự phát triển có thể là con dao hai lưỡi và
không ổn định.
2. Lịch sử phát triển M&A
a. Cơn sóng M&A những năm 1890s và từ 1910-1920.
Vào những năm 1890, khi mà những vụ mua lại diễn ra ở Mỹ hoàn toàn
được ghi lại đầy đủ trong các tài liệu thì những bằng chứng đáng tin cậy về hoạt
động M&A ở Châu Âu lại chỉ có từ những năm 60 ở Anh và đầu những năm 80
ở lục địa Châu Âu. Mặc dù vậy, không phải là M&A không xuất hiện ở Châu
Âu trong giai đoạn này. Goregen và Renneboog (2004) nhận định rằng hoạt
động mua lại đầu tiên ở Châu Âu diễn ra vào khoảng năm 1880 và kết thúc vào
năm 1904. Cũng giống như ở Mỹ, hoạt động M&A ở Châu Âu bắt nguồn từ
những thay đổi cơ bản về công nghệ và tiến trình công nghiệp hoá.
Trang 8
O’Brien (1988) đã biện luận rằng hoạt động đầu tiên, cái được gọi là làn
sóng sáp nhập lớn được nổ ra bởi cuộc suy thoái kinh tế, những đạo luật mới của
nhà nước về sáp nhập và sự phát triển của hoạt động mua bán cổ phiếu công
nghiệp tại NYSE. Cơn sóng này lan toả rộng khắp cả ở Mỹ và Châu Âu bởi sự
thống nhất nền sản xuất công nghiệp. Stigler (1950) đã mô tả sự thống nhất như
là “việc hợp nhất để tạo ra sự độc quyền”. Theo Lamouraux (1985), mục đích
chủ yếu của những vụ sáp nhập này là giảm sự cạnh tranh giá cả chứ không phải
là để khai thác những ngành kinh tế qui mô. Các vụ sáp nhập ngang như vậy đã
dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn lớn, thâu tóm phần lớn sức mạnh thị
trường trong các ngành công nghiệp độc quyền. Làn sóng lớn này đi đến hồi kết
thúc vào giai đoạn năm 1903-1905, khi thị trường cân bằng sụp đổ. Chiến tranh
thế giới thứ I đã giữ hoạt động M&A chững lại cho đến cuối những năm 1910.
Những nỗ lực thúc đẩy độc quyền hoá được đánh dấu bởi các hoạt động
tái cơ cấu dưới làn sóng sát nhập đã làm dấy lên mối lo ngại cho cộng đồng. Mối
lo ngại này khiến hình thành nên luật chống uỷ thác vào những năm 1910 cả ở
Mỹ và Châu Âu. Sudarsanam (2003) đã nhận định rằng chính những đạo luật
chống uỷ thác này là nguyên nhân thúc đẩy sự khởi đầu mạnh mẽ của trào lưu
sáp nhập lần 2 bắt đầu vào cuối năm 1910 cho đến đầu năm 1920, và thu nhỏ lại
vào năm 1929, do sự suy yếu của thị trường chứng khoán và cuộc đại suy thoái
kế tiếp. Bởi những đạo luật chống uỷ thác được ban hành chống lại các hãng độc
quyền, những tập đoàn chi phối đã bị sụp đổ và bị gạt bỏ từng phần. Và sau đó,
các hãng chuyển sang thâm nhập theo chiều dọc-các ngành công nghiệp không
còn bị chi phối bởi 1 hãng đứng đứng đầu nữa, mà bởi hai hay nhiều hãng kết
hợp với nhau. Ngược lại với sự sáp nhập ngang trong làn sóng sáp nhập đầu tiên
là nhắm vào sức mạnh thị trường đang lên; những cuộc sáp nhập năm 1920
nhằm vào những ngành kinh tế qui mô.
b. Giai đoạn 1950-1970.
Cuộc đại suy thoái kinh tế và chiến tranh thế giới II đã ngăn cản cơn sóng
sáp nhập trong một vài thập kỷ. Làn sóng M&A bắt đầu những năm 50 và chỉ
Trang 9
kéo dài trong vòng 2 thập kỷ, nó lên tới đỉnh cao năm 1968 và suy yếu vào năm
1973 khi cuộc khủng hoảng dầu đã đẩy nền kinh tế thế giới đến một cuộc suy
thoái mới. Theo Sudarsanam (2003) mô hình M&A ở Mỹ và ở Anh là khác
nhau, khi mà ở Mỹ hoạt động mua lại được dựa trên sự đa dạng và sự phát triển
của các khối kết lớn, thì ở Liên hiệp Anh các cuộc giao thương lại nhắm tới sự
sáp nhập ngang.
c. Những năm 80.
Làn sóng M&A thứ 4 nổ ra vào năm 1981, khi thị trường chứng khoán
phục hồi sau cuộc suy thoái kinh tế trước đó, và kết thúc năm 1989. Làn sóng
này được khởi nguồn từ những thay đổi trong chính sách chống uỷ thác, sự bãi
bỏ các qui định trong dịch vụ tài chính, và sự hình thành các công cụ tài chính
và thị trường mới cũng như tiến trình công nghệ hoá công nghiệp điện tử. Thị
trường quyền năng tiêu biểu bởi một số lượng chưa từng thấy những sự tước
đoạt, sự mua lại địch thủ và những sự giao thương cổ phần giành quyền sở hữu.
d. Những năm 90.
Làn sóng M&A lần 5 bắt đầu năm 1993, và cũng giống như những làn
sóng trước đây, nó được dấy lên bởi sự bùng nổ kinh tế và chững lại một thời
gian bởi sự thu hẹp của thị trường vốn năm 2000. Cường độ của làn sóng này
(1993 – 2001) tăng nhanh chưa từng thấy cả về giá trị mua lại và số lượng hợp
đồng M&A.. Theo số liệu cổ phần tài chính của Thomson, trong suốt giai đoạn
này có 119035 hợp đồng M&A tại Mỹ và ở Châu Âu là 116925 hợp đồng.
Trong khi chỉ có 34494 và 12729 các cuộc giao thương như vậy ở Mỹ và Châu
Âu trong suốt trào lưu M&A lần thứ 4 (1983-1989).Giai đoạn này cũng tiêu biểu
cho số lượng tiền tệ với tổng giá trị toàn cầu lên tới 20 nghìn tỷ đô, gấp 5 lần
tổng giá trị của giai đoạn 4.
Người ta hoàn toàn tin rằng tiến trình toàn cầu hoá, sự đổi mới công nghệ,
sự cải cách và tư hữu hóa cũng như sự bùng nổ thị trường tài chính trong giai
đoạn này đã thúc đẩy làn sóng M&A. Những tài liệu gần đây đã nhận định rằng
các thương vụ này đều nhằm vào việc giảm chi phí, thâm nhập thị trường mới.
Trang 10
Điều này khẳng định rằng rất nhiều những thương vụ đó đều bắt nguồn từ vấn
đề của các hãng bao gồm cả sự đánh giá quá cao vốn.
e. Làn sóng mới.
Từ năm 2003, các hoạt động mua lại lại bắt đầu dấy lên ở Mỹ, Châu Âu
và cả Châu Á tiếp nối công cuộc cải cách công nghiệp quốc tế những năm 90.
M&A diễn ra song song với sư phục hồi dần dần của nền kinh tế và thị trường
tài chính sau cuộc suy thoái năm 2000. Theo cơ sở dữ liệu về tài chính Thomson
thì khối lượng các thương vụ M&A năm 2004 đã tăng lên 71% so với năm 2002.
Hoạt động M&A ở Châu Âu đều phát triển theo một xu hướng, trong những
cuộc đấu giá ở Châu Âu, tổng giá trị mua lại năm 2004 lên tới 758 tỷ đô vượt
lên tổng giá trị năm 2002 là 517 tỷ đô. Từ đầu năm 2002 đến giữa năm 2005,
các hoạt động mua lại chiếm khoảng 43% tổng giá trị các thương vụ M&A của
các nhà đấu giá Châu Âu và
chiếm 13% tổng giá trị M&A của các hãng ở Mỹ. Tổng giá trị các thương
vụ hàng năm tại Trung Quốc đã tăng nhanh ngoạn mục trong giai đoạn 2002-
2005, từ 2 tỷ đô năm 2002 lên 19 tỷ đô tính đến giữa năm 2005.
Như vậy, từng giai đoạn phát triển của M&A nêu trên đều chỉ ra rằng mỗi
trào lưu M&A đều được đặc trưng bởi mỗi động lực thúc đẩy khác nhau, tuy
nhiên những nhân tố thông thường có thể làm thúc đẩy làn sóng M&A đó là các
giai đoạn phục hồi kinh tế hay sự mở rộng thị trường và bùng nổ thị trường
chứng khoán. Và đặc biệt, cả 5 giai đoạn phát triển M&A đều kết thúc bởi sự
suy yếu của thị trường chứng khoán. Nhân tố khác thúc đẩy tiến trình M&A
chính là cơn lốc công nghiệp hoá cũng như sự đổi mới tài chính và công nghệ.
Như vậy, làn sóng M&A thường xảy ra trong các giai đoạn gắn với những sự
thay đổi được điều tiết.
Trang 11
Mua lại và sáp nhập xuyên
quốc gia
Sáp nhập xuyên
quốc gia: tạo nên 1
thực thể mới hoặc
hợp nhất với 1 DN
đã có sẵn sau khi
tài sản và các hoạt
động của DN trong
nước và nước
ngoài kết hợp lại
Mua lại xuyên
quốc gia: Mua lại
trên 10% vốn của
doanh nghiệp, chi
nhánh ở nước
ngoài.
Mua lại toàn bộ:
mua 100%
Mua lại đa số: mua
50%-99%
Mua lại thiểu số:
mua 10%-49%
Hợp nhất: sáp nhập bình đẳng
Sáp nhập theo luật: Chỉ 1
DN tồn tại tạo thành 1 DN
mới, nắm giữ toàn bộ tài
sản, quyền & nghĩa vụ của
DN khác như 1 thực thể
hoạt động hợp pháp
Mua lại các chi
nhánh nước ngoài:
Tăng lượng vốn nắm
giữ của các DN mẹ
ở các chi nhánh có
sẵn ở nước khác,
mua lại toàn bộ
Mua lại DN trong nước
Mua lại các DN tư nhân
Tư nhân hoá: mua lại các DN
nhà nước
Mua lại các DN quốc hữu
hoá: mua lại các DN được
quốc hữu hoá tạm thời, VD
Indonesia, Nhật, Hàn Quốc
3. Cấu trúc của hoạt động M&A xuyên quốc gia
Trang 12
4. Phân loại M&A xuyên quốc gia theo chức năng
(a) M&A ngang là hình thức mua lại và sáp nhập giữa các công ty cùng
ngành kinh doanh. Loại hình M&A này đang phát triển mạnh trong những năm
gần đây do sự tổ chức lại mang tính toàn cầu hoá của rất nhiều ngành công
nghiệp hưởng ứng những thay đổi trong công nghệ và chính sách mở cửa. Qua
hình thức góp vốn, các công ty sáp nhập hy vọng sẽ đạt được sự đồng vận (tài
sản chung có giá trị hơn tổng tài sản riêng của 2 công ty cộng lại) và thế mạnh
trên thị trường. M&A phổ biến trong các ngành công nghiệp như: hoá dược, tự
động hoá, xăng dầu và một vài ngành công nghiệp dịch vụ.
(b) M&A dọc là hình thức mua lại và sáp nhập giữa các công ty có mối
quan hệ cung-cầu hay giữa các công ty có cùng dây chuyền sản xuất sản phẩm
cuối cùng. Điển hình của loại hình M&A dọc là các công ty muốn giảm sự bất
ổn và chi phí giao dịch trong các khâu sản xuất và tận dụng lơi thế kinh tế nhờ
quy mô. M&A giữa nhà cung cấp các phần động cơ và khách hàng (các hãng
sản xuất ô tô) là một ví dụ tốt.
(c) M&A kết hợp là hình thức mua lại và sáp nhập giữa các công ty không
liên quan hay các công ty trong các hình thức kinh doanh khác nhau. Các công
ty sử dụng hình thức M&A kết hợp muốn giảm rủi ro và tận dụng lợi thế kinh tế
nhờ quy mô.
Sự cân bằng giữa các loại hình M&A trên thay đổi theo thời gian. Tầm
quan trọng của M&A ngang đang tăng dần: trong năm 1990, M&A chiếm 70%
tổng giá trị của hoạt động M&A, 10 năm trước, con số này là 59%. M&A dọc
cũng bắt đầu tăng từ giữa những năm 90 nhưng chỉ dừng lại ở tỷ lệ dưới 10%.
Trong những năm cuối thập kỷ 80, M&A tăng vọt, M&A kết hợp trở nên rất
quan trọng. Tuy nhiên các công ty giờ đây tập trung hơn vào ngành kinh doanh
chính để cạnh tranh dẫn đến sự giảm sút trong tỷ lệ M&A kết hơp.
Trang 13
Sự khác biệt giữa 3 loại hình M&A trên không thực sự rõ ràng. Sự phát
triển liên quan đến công nghệ mạng càng làm cho sự phân biệt trở nên khó khăn
và có thể gây ảnh hưởng lớn đến sự liên kết chính thức giữa các tập đoàn.
5. Xu hướng phát triển M&A.
Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh
công ty ở nước ngoài đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở thành chiến lược
hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên Quốc gia (TNCs).
Năm 2006 được coi là năm được mùa của những vụ sát nhập với tổng giá
trị các thương vụ kiểu này đã vượt quá kỷ lục của thời hoàng kim 2000. Theo số
liệu thống kê của hãng thông tin Dealogic, tính đến ngày 20-11, tổng giá trị của