Năm 2008 chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Các nước trên thế giới đang cố gắng đưa đất nước mỡnh thoỏt khỏi khủng hoảng và cùng với đó là sự phát triển đi lên của nền kinh tế thế giới. Để khôi phục lại một nền kinh tế tăng trưởng cần có các biện pháp và chính sách phù hợp ở từng quốc gia và đặc biệt là các gói kích cầu của chính phủ các nước. Khi đó NSNN với ý nghĩa là nội lực tài chớnh giỳp Nhà nước trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế sẽ là công cụ hữu hiệu để NN đưa ra các chính sách kích cầu hợp lý, kịp thời. Một nước có nguồn lực NS mạnh sẽ giúp chính phủ tốt hơn trong hoạt động thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mỡnh. Vỡ vậy NSNN là một nhõn tố vụ cựng quan trọng cần được quản lý tốt nhằm tạo động lực tiền đề cho sự phát triển kinh tế, ổn định xó hội và giữ vững an ninh-quốc phũng.
Nước ta đang trong quá trỡnh thực hiện cụng nghiệp húa hiện đại hóa nhằm hướng tới một nền công nghiệp hiện đại. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, công tác quản lý NS cũng có nhiều thay đổi phù hợp. Việc phân cấp quản lý NS ngày càng hoàn thiện nhằm tạo điều kiện cho các chính quyền địa phương chủ động hơn trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ công tác của mỡnh.
NS Huyện cú vai trũ cung cấp phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của chính quyền huyện và cấp chính quyền cơ sở đồng thời là một công cụ để chính quyền cấp Huyện thực hiện quản lý toàn diện cỏc hoạt động kinh tế xó hội trờn địa bàn Huyện. Tuy nhiờn do NS Huyện là một cấp NS trung gian ở giữa NS cấp tỉnh và NS cấp xó nờn đôi khi NS Huyện chưa thể hiện được vai trũ của mỡnh đối với kinh tế địa phương.
Do vậy để chính quyền Huyện thực thi được hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế xó hội mà nhà nước giao cho thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế địa phương trên các lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp nông thôn tại địa bàn thỡ cần cú một NS Huyện đủ mạnh và phù hợp là một đũi hỏi thiết thực, là một mục tiờu phấn đấu đối với cấp Huyện.Vỡ thế cần làm tốt cụng tỏc phõn cấp quản lý NS Huyện một cách hiệu quả để NS Huyện thực sự là một cấp NS mạnh tạo điều kiện chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện chức năng nhiệm vụ của mỡnh.
Trong thời gian thực tập tại phũng Tài chớnh – kế hoạch Huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, với những kiến thức đó được học ở nhà trường cùng với sự giúp đỡ nhiệt tỡnh của thầy giỏo:TS.Phạm Ngọc Linh cựng với sự giỳp đỡ của các cán bộ phũng tài chớnh – kế hoạch đó hướng dẫn em tập trung tỡm hiểu và phõn tớch tỡnh hỡnh phõn cấp quản lý NS huyện trờn địa bàn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An với đề tài: “Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”
77 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3313 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Năm 2008 chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Các nước trên thế giới đang cố gắng đưa đất nước mình thoát khỏi khủng hoảng và cùng với đó là sự phát triển đi lên của nền kinh tế thế giới. Để khôi phục lại một nền kinh tế tăng trưởng cần có các biện pháp và chính sách phù hợp ở từng quốc gia và đặc biệt là các gói kích cầu của chính phủ các nước. Khi đó NSNN với ý nghĩa là nội lực tài chính giúp Nhà nước trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế sẽ là công cụ hữu hiệu để NN đưa ra các chính sách kích cầu hợp lý, kịp thời. Một nước có nguồn lực NS mạnh sẽ giúp chính phủ tốt hơn trong hoạt động thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Vì vậy NSNN là một nhân tố vô cùng quan trọng cần được quản lý tốt nhằm tạo động lực tiền đề cho sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội và giữ vững an ninh-quốc phòng.
Nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm hướng tới một nền công nghiệp hiện đại. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, công tác quản lý NS cũng có nhiều thay đổi phù hợp. Việc phân cấp quản lý NS ngày càng hoàn thiện nhằm tạo điều kiện cho các chính quyền địa phương chủ động hơn trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ công tác của mình.
NS Huyện có vai trò cung cấp phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của chính quyền huyện và cấp chính quyền cơ sở đồng thời là một công cụ để chính quyền cấp Huyện thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội trên địa bàn Huyện. Tuy nhiên do NS Huyện là một cấp NS trung gian ở giữa NS cấp tỉnh và NS cấp xã nên đôi khi NS Huyện chưa thể hiện được vai trò của mình đối với kinh tế địa phương.
Do vậy để chính quyền Huyện thực thi được hiệu quả những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước giao cho thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế địa phương trên các lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp nông thôn tại địa bàn thì cần có một NS Huyện đủ mạnh và phù hợp là một đòi hỏi thiết thực, là một mục tiêu phấn đấu đối với cấp Huyện.Vì thế cần làm tốt công tác phân cấp quản lý NS Huyện một cách hiệu quả để NS Huyện thực sự là một cấp NS mạnh tạo điều kiện chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
Trong thời gian thực tập tại phòng Tài chính – kế hoạch Huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, với những kiến thức đã được học ở nhà trường cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo:TS.Phạm Ngọc Linh cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng tài chính – kế hoạch đã hướng dẫn em tập trung tìm hiểu và phân tích tình hình phân cấp quản lý NS huyện trên địa bàn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An với đề tài: “Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”
2.Mục tiêu nghiên cứu:
Khảo sát đánh giá phân cấp quản lý NS trên địa bàn Huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An. Từ đó đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện phân cấp quản lý NS cho Huyện trong thời gian tới.
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở hệ thống các lý luận về NS như: NSNN và vai trò của NSNN, Phân cấp NSNN của nước ta hiện nay để làm rõ vấn đề phân cấp quản lý NS Huyện.
- Về mặt thực tiễn: Đề ra các giải pháp nhằm tăng cường phân cấp quản lý NS cho Huyện Nam Đàn trong nhiệm vụ quản lý NS Huyện cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
3.Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Huyện Nam Đàn ,Tỉnh Nghệ An.
Về nội dung: phân cấp quản lý NS.
Vê thời gian: Thu thập số liệu từ năm 2006-2008.
4.Câu hỏi nghiên cứu:
Thế nào là phân cấp quản lý NS?
Thực trạng quản lý NS huyện Nam Đàn giai đoạn 2006-2008 như thế nào?
Giải pháp nào nhằm tăng cường phân cấp quản lý NS trên địa bàn huyện?
5.Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp thu thập số liệu, khảo sát , phân tích, so sánh..
6. Bố cục chuyên đề:
Chuyên đề được chia thành 3 phần:
Phần I: Sự cần thiết tăng cường phân cấp quản lý NS cấp Huyện
Phần II: Thực trạng phân cấp quản lý NS Huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Phần III: Giải pháp tăng cường phân cấp quản lý NS Huyện.
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT CỦA TĂNG CƯỜNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NS CẤP HUYỆN.
NSNN và phân cấp quản lý NSNN:
1.1.1.NSNN và vai trò của NSNN:
1.1.1.1. Khái niệm
Sự xuất hiện của nhà nước và sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa đã là tiền đề cho sự ra đời của NSNN. Cho đến nay, thuật ngữ “ ngân sách nhà nước”được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội ở mọi quốc gia. Song, quan niệm về NSNN lại chưa thống nhất. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về NSNN không giống nhau tuỳ theo quan điểm của người định nghĩa thuộc các trường phái kinh tế khác nhau hoặc tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau.
- Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển thì NSNN là một văn kiện tài chính trong đó mô tả các khoản thu và chi của chính phủ được thiết lập hàng năm.
- Còn theo các nhà kinh tế học hiện đại thì đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN.Ví dụ như:
+ Các nhà kinh tế Pháp đưa ra quan điểm: “NSNN là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các nghiệp vụ tài chính của một tổ chức công hoặc khu vực tư được dự kiến và cho phép”.
+ Các nhà kinh tế Nga cho rằng “ NSNN là bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của NN”
+ Còn ở Trung Quốc xem xét: “NSNN là kế hoạch thu - chi tài chính hàng năm của NN được xét duyệt theo trình tự pháp định”.
Ngay ở Việt Nam trong các cuốn giáo trình của các tác giả cũng đưa ra định nghĩa NSNN khác nhau. Cụ thể như sau:
- Giáo trình lý thuyết tài chính: “NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của NN và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi NN tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”.
- Giáo trình quản lý tài chính công: NSNN là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn tài chính được huy động cho NN và sử dụng các nguồn tài chính đó nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của NN do Hiến pháp quy định.
- Giáo trình quản lý tài chính NN lại viết: NSNN là một phạm trù kinh tế lịch sử gắn liền với sự ra đời của NN, gắn liền với kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Nói một cách khác, sự ra đời của NN, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá tiền tệ như những điều kiện cần và đủ cho sự phát sinh tồn tại của kinh tế hàng hoá tiền tệ những điều kiện cần và đủ cho sự phát sinh tồn tại của NSNN. Hai tiền đề nói trên xuất hiện rất sớm trong lịch sử, nhưng thuật ngữ NSNN lại xuất hiện muộn hơn, vào buổi bình minh của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thuật ngữ này chỉ các khoản thu và các khoản chi của NN để thể chế hoá bằng pháp luật thực hiện quyền lập pháp về NSNN ( quyết định về các khoản thu, các khoản chi, tổng số thu, tổng số chi ..) còn quyền hành pháp giao cho chính phủ thực hiện.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN do cách tiếp cận và nhìn nhận vai trò tác dụng của NSNN trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song trong bài chuyên đề này chúng ta thống nhất sự dụng định nghĩa được đưa ra trong luật NSNN hiện hành như sau:
Theo điều 1 luật NSNN: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Như vậy có thể nói NSNN là một bảng dự toán bằng tiền các hoạt động thu và chi của NN trong một thời gian nhất định ( thường là một năm). Trong đó có 2 khoản mục thu chi được Quốc Hội phê chuẩn:
Quỹ NS được hình thành từ các khoản thu mà Quốc Hội quy định và tiến hành giao cho các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ thu tạo lập quỹ.
Các khoản chi từ quỹ NS cũng được xem xét sao cho hợp lý để khuyến khích phát triển kinh tế xã hội và đạt các mục tiêu quản lý của NN. Chi NS gồm các khoản chi cho các hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Hoạt động của NSNN chính là việc tạo nguồn thu và sự dụng nguồn thu đó cho các hoạt động chi từ quỹ tiền tệ quốc gia, làm cho nguồn tài chính vận động giữa một bên là chủ thể NN và một bên là các chủ thể kinh tế xã hội khác trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị. Trong quá trình phân phối này làm xuất hiện các mối quan hệ tài chính đó là:
Quan hệ tài chính giữa NN và các chủ thể doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quan hệ tài chính giữa NSNN và các đơn vị quản lý NN nằm trong lĩnh vực sự nghiệp văn hóa xã hội hành chính và an ninh quốc phòng.
Quan hệ kinh tế NSNN với cá hộ gia đình và dân cư.
Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính.
Như vậy chức năng của NSNN bao gồm các khía cạnh chủ yếu sau đây: NSNN là công cụ để thực hiện huy động và phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội, đằng sau hoạt động thu chi NS bằng tiền là sự thể hiện quá trình phân bổ các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh.
NSNN là bộ phận tài chính của NN nên nó có chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Trong nền kinh tế thị trường việc phân bổ nguồn lực được thực hiện chủ yếu trên hai kênh: kênh của lực lượng thị trường và kênh của NN thông qua hoạt động thu chi của tài chính NN nói chung và NSNN nói riêng từ đó nó còn có chức năng điều chỉnh kinh tế xã hội thông qua các công cụ của nó
1.1.1.2. Vai trò của NSNN:
Vai trò tất yếu của NSNN ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, là vai trò quan trọng của NS trong cơ chế thị trường. Vai trò này về mặt cụ thể có thể đề cập đến ở nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau song trên góc độ tổng hợp có thể khái quát trên hai khía cạnh sau:
Vai trò của NSNN trong việc điều tiết quản lý nền kinh tế:
Thể hiện ở việc kích thích, tạo hành lang, môi trường và gây sức ép. NN thực hiện chính sách thuế để vừa kích thích vừa gây sức ép. Tạo điều kiện thuận lợi trên các mặt tài chính, để khuyến khích các thành phần kinh tế có doanh lợi trong đầu tư phát triển. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư khai thác tài nguyên, sức lao động, thị trường...Đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn các công trình trọng điểm, các cơ sở kinh tế then chốt để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, để có thêm những sản phẩm chủ lực tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm chỗ dựa cho các ngành các thành phần kinh tế trong phát triển kinh tế.
Các khoản chi từ NSNN nhằm phân bổ có hiệu quả các nguồn lực vào các lĩnh vực then chốt, các lĩnh vực mà khu vực tư nhân chưa có điều kiện hoặc không dám đầu tư...
Ngoài ta NSNN còn được sự dụng để kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả thị trường, góp phần ổn định và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Vai trò của NSNN trong việc ổn định xã hôi:
Việc NN phân phối tổng sản phẩm xã hội, trong ổn định và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tạo điều kiện cho ổn định chính trị thông qua NSNN bảo đảm các nhu cầu và điều kiện để không ngừng hoàn thiện bộ máy NN, phát huy vai trò của bộ máy NN trong việc quản lý mọi lĩnh vực của đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ và phát triển những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp cách mạng
Các khoản chi từ NSNN nhằm tiến tới các mục đích xã hội to lớn: trợ cấp cho người nghèo, chi cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, chi cho các mục tiêu quốc gia như kế hoạch hóa dân số,nước sạch....nhằm tiến tới một xã hội văn minh và bình đẳng.
1.1.2. Phân cấp NSNN:
1.1.2.1. sự cần thiết của phân cấp NSNN
Phân cấp quản lý NSNN là việc phân định nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan NN có thẩm quyền trong việc điều hành và quản lý NSNN. Chế độ pháp lý về phân cấp quản lý NSNN là tổng hợp các qui phạm pháp luật do cơ quan NN có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình phân định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan NN có thẩm quyền trong lĩnh vực NSNN và các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện việc phân giao nguồn thu và chi của NS các cấp.
Quản lý NN về NS là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý NN, đó là sự tác động, điều chỉnh của NN vào các quan hệ phát sinh trong việc quản lý và sử dụng NSNN thông qua các công cụ pháp luật, chính sách nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực tài chính quốc gia.
Trong thời điểm hiện nay NN ta đã và đang tiến hành cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy NN, chúng ta đã thu được những thành tựu rất có ý nghĩa nhưng hiện tượng vi phạm pháp luật, nạn tham nhũng, sử dụng lãng phí nguồn NSNN còn khá phổ biến, còn khá nhiều bất cập, tồn tại trong công tác Quản lý và sử dụng NSNN, phân cấp quản lý NN về NS là một trong phương thức tốt để khắc phục những biểu hiện tiêu cực trên. Bởi ngân phân cấp NSNN có tác dụng sau:
Phân cấp quản lý NSNN làm tăng quyền chủ động, linh hoạt, khắc phục sự thụ động, trông chờ và cơ chế xin cho trong hoạt động quản lý NN của cấp chính quyền, cơ quan NN cấp dưới đồng thời tạo điều kiện để các cơ quan quản lý NN ở trung ương tập trung vào thực hiện chức năng điều hành, chỉ đạo, xây dựng và hoạch định các kế hoạch, chính sách, pháp luật chiến lược quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội đất nước.
Phân cấp quản lý NSNN đảm bảo cho việc tương thích giữa thẩm quyền và trách nhiệm, giữa tổ chức bộ máy và việc cung cấp các nguồn lực và điều kiện hoạt động của các cơ quan quản lý NN, như vậy sẽ góp phần đảm bảo hiệu lực, từng bước nâng cao hiệu quả công tác quản lý NN.
Phân cấp quản lý NSNN sẽ giúp cho việc xác định một cách rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp quản lý NN về NS, đảm bảo giải quyết kịp thời các nhiệm vụ quản lý NN về NS.
Phân cấp quản lý NSNN sẽ góp phần quan trọng tạo môi trường đầu tư sản xuất - kinh doanh, dịch vụ phát triển nền kinh tế trong điểu kiện nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại Quốc tế WTO, đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế Quốc tế.
Phân cấp quản lý NSNN cũng tạo điều kiện tăng cường kiểm tra , thanh tra công tác quản lý NN về NS đối với hệ thống bộ máy quản lý NN các cấp, góp phần làm lành mạnh, minh bạch nền tài chính Quốc gia.
Vì vậy phân cấp quản lý NSNN cũng là yêu cầu khách quan, tất yếu trong lộ trình xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại,từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phân cấp quản lý NSNN cũng là phương pháp tốt để NN ta quản lý và sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài chính Quốc gia
1.1.2.2. Nguyên tắc phân cấp NSNN:
Phân cấp NSNN là một công việc cấp thiết nhằm tăng tính chủ động sáng tạo cho các cấp địa phương trong công tác quản lý và phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
Bảo đảm đúng quy định của Luật NSNN. Việc phân cấp quản lý NSNN đã được đưa vào Luật NSNN năm 1996 (sửa đổi năm 2002). Vì vậy để thực hiện phân cấp NSNN cho trung ương và địa phương, cũng như các cấp chính quyền tại địa phương phải tuân thủ theo các quy định trong luật và các văn bản hướng dẫn thi hành của cấp trên.
Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương, đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư từng vùng và năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hiệu quả.
Phân cấp tối đa các nguồn thu nhằm tăng quyền chủ động trong quá trình quản lý và điều hành NS phục vụ cho nhiệm vụ kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền, nhất là cấp cơ sở, giảm dần sự phụ thuộc của NS cấp trên (số trợ cấp từ NS cấp trên). Kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại của việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, tỷ lệ % phân chia các nguồn thu giữa các cấp NS trong thời gian qua.
Phân cấp nhiệm vụ chi bảo đảm chủ động thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội của các cấp chính quyền.
Không phân chia các nguồn thu có quy mô nhỏ cho các cấp NS. Với mỗi khoản thu được phân cấp theo tỷ lệ rõ ràng. Nhưng tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế xã hội địa phương để áp dụng tỷ lệ phân chia, tránh trường hợp phân nhỏ các nguồn thu mà nên khuyến khích giao các khoản thu 100% cho cấp dưới.
1.1.2.3. Nội dung phân cấp NSNN:
Với định chế tổ chức hệ thống NN gồm nhiều cấp chính quyền, trong đó NSNN được coi là phương tiện vật chất chủ yếu để mỗi cấp chính quyền thực hiện các nhiệm vụ, chức năng theo Hiến định và theo Luật định - thì phân cấp quản lý NSNN là sự giải quyết các quan hệ về NS giữa chính phủ trung ương và chính quyền địa phương qua các mặt chủ yếu sau:
Thẩm quyền NS nhà nước.
Phân định quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ và chính quyền địa phương trong các vấn đề chủ yếu của NSNN bao gồm: quyết định dự toán NS; phân bổ dự toán NS; phê chuẩn quyết toán NS; điều chỉnh dự toán NS; ban hành chế độ, tiêu chuẩn, định mức về NSNN.
Phân định nội dung cụ thể về từng nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các NSNN
Phân chia giữa NSTW và NSĐP về nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN. Đó là sự xác định NSTW được thu những khoản gì và phải chi những khoản gì; NS tỉnh, NS huyện, NS xã được thu những khoản gì và phải chi những khoản gì.
Quy định mối quan hệ giữa các cấp NSNN.
Quy định các nguyên tắc về chuyển giao NS của cấp trên xuống cấp dưới và ngược lại. Đây là một vấn đề cốt tử của quá trình phân cấp NSNN, vì thông qua số lượng, quy mô và cơ cấu chuyển giao giữa các cấp, người ta có thể đánh giá mức độ độc lập và đi liền với nó là quyền tự chủ của NS mỗi cấp trong hệ thống NSNN.
1.2.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý NSNN:
Hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc NN chính là sự phân chia cấu tạo NN thành các đơn vị hành chính lãnh thổ qua đó xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan NN với nhau và giữa các cơ quan NN trung ương với cơ quan chính quyền địa phương. Bộ máy NN được phân chia thành từng cấp và được giao nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong quản lý kinh tế, xã hội với mỗi hình thức cấu trúc nhà NN khác nhau.
Hiện nay trên thế giới có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu đó là: Nhà nước liên bang và Nhà nước đơn nhất ( phi liên bang ).
Kiểu 1: Nhà nước liên bang ( Đức, Mỹ, Malaysia, Canada…)
Nhà nước liên bang là kiểu NN có từ hai hay nhiều thành viên hợp lại, cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý được tổ chức thành hai hệ thống. Trong đó một hệ thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống riêng của từng thành viên. Đối với những nước có cấu trúc nhà nước liên bang thì hệ thống NSNN được tổ chức thành 3 cấp như sau: NS liên bang, NS các bang và NS của các cấp địa phương trực thuộc bang.
Kiểu 2: Nhà nước đơn nhất: ( Pháp, Anh, Ý, Nhật…)
Hình thức cấu trúc NN đơn nhất là NN có chủ quyền chung, cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý được thống nhất từ trung ương đến địa phương, tập trung quyền lực cao ở cấp trung ương. Ở các nước này thì hệ thống NSNN bao gồm 2 cấp đó là: NSTW và NSĐP. Trong đó mức độ và giới hạn, phần lớn tập trung ở NSTW.
Như vậy có thể thấy đối với mỗi hình thức cấu trúc NN khác nhau thì cách phân cấp về quản lý hành chính NN cũng khác nhau và kéo theo là khác nhau trong phân cấp quản lý NSNN.
Nhiệm vụ cung cấp hàng hoá công cộng
Một chức năng quan trọng của NN là việc cung cấp hàng hóa công cộng. Và để việc cung cấp hàng hoá công cộng, dịch vụ công công có hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu của nhân dân thì cũng cần được giao cho các cấp chính quyền thực hiện. Những hàng hoá, dịch vụ cần nguồn vốn lớn, phải có khả năng quản lý cao và mang tính chất quan trọng như: an ninh, quốc phòng… thường do chính quyền NN trung ương đảm bảo, còn những hàng hoá mang tính phổ biến hơn thường giao cho chính quyền địa phương thực hiện, đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp theo tình hình mỗi địa phương. Mặt khác việc phân cấp về cung ứng hàng hoá và dịch vụ công cộng chính là tiền đề để phân định nhiệm vụ thu, và nhiệm vụ chi cho từng cấp, và từng địa phương do đó nó ảnh hưởng đến việc phân cấp quản lý NSNN
Đặc điểm tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế xã hội của vùng lãnh thổ:
Đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng rất nhiều đến việc phân cấp quản lý hành chính NN. Ví dụ như vùng hải đảo, vùng biên giới và vùng đồng bằng vùng đồi núi thì cách quản lý hành chính cũng khác nhau sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng. Bên cạnh sự khác biệt về điều kiện tự nhiên thì khác biệt về trình độ kinh tế- xã hội cũng ảnh hưởng đến quản lý NN như sự