Đề tài Tây ba lô đến với văn hóa Việt Nam

Trong nhiều thập niên qua, ngành du lịch được coi là một trong những lĩnh vực kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới, trở thành động lực chủ yếu đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các quốc gia. Mỗi quốc gia đều tập trung phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang tăng cường xu thế và hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, du lịch Trong đó, du lịch đóng vai trò quan trọng cả trên phương diện kinh tế lẫn văn hóa. Phần đông khách du lịch nước ngoài có nhu cầu nghỉ ngơi ở những nơi phong cảnh đẹp. Do đó, mặt trời, cát biển đối với họ cực kỳ quan trọng. Những thứ này ở ta, một nước nhiệt đới có nhiều bãi biển đẹp không thiếu. Hình ảnh lộng lẫy của Vịnh Hạ Long trong bộ phim Pháp có tên "Đông Dương" ít nhiều đã lôi cuốn họ. Ngoài nhu cầu trên, họ cũng có nhu cầu cao hơn về văn hoá: tìm hiểu đất nước, con người Việt Nam. Nhu cầu này ngày càng tăng trong thế giới hội nhập và toàn cầu. Không ít du khách đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu văn hoá. Trong số này, chúng ta đang bỏ quên một loại "thượng khách" mà lâu nay ta gọi một cách giễu cợt và không mấy thân thiện là "Tây ba lô". Đa số họ đều rất đáng mến. Do đó, chúng tôi mong muốn mọi người được hiểu thêm về những du khách này cũng như để chúng ta có thê hiểu rõ hơn về tâm lý của du khách “Tây ba lô” khi đến với văn hóa Việt Nam.

docx29 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tây ba lô đến với văn hóa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN ------------˜™----------- Môn: Tâm lý khách du lịch TÂY BA LÔ ĐẾN VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM GVHD: Võ Thị Bích Thùy Nhóm thực hiện: Hồ Thị Như Quỳnh 11157058 DH11DL Trần Vũ Tố Như 11157049 DH11DL Trần Thị Mỹ Như 11157417 DH11DL Phạm Thị Trang 11157321 DH11DL Phạm Thị Huyền Trang 11157322 DH11DL Võ Minh Dương 11157101 DH11DL Bùi Minh Tùng 11157351 DH11DL Nguyễn Thị Hồng Vân 11157356 DH11DL Trần Ngọc Phát 11157242 DH11DL MỞ ĐẦU Trong nhiều thập niên qua, ngành du lịch được coi là một trong những lĩnh vực kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới, trở thành động lực chủ yếu đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các quốc gia. Mỗi quốc gia đều tập trung phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang tăng cường xu thế và hội nhập trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, du lịch Trong đó, du lịch đóng vai trò quan trọng cả trên phương diện kinh tế lẫn văn hóa. Phần đông khách du lịch nước ngoài có nhu cầu nghỉ ngơi ở những nơi phong cảnh đẹp. Do đó, mặt trời, cát biển đối với họ cực kỳ quan trọng. Những thứ này ở ta, một nước nhiệt đới có nhiều bãi biển đẹp không thiếu. Hình ảnh lộng lẫy của Vịnh Hạ Long trong bộ phim Pháp có tên "Đông Dương" ít nhiều đã lôi cuốn họ... Ngoài nhu cầu trên, họ cũng có nhu cầu cao hơn về văn hoá: tìm hiểu đất nước, con người Việt Nam... Nhu cầu này ngày càng tăng trong thế giới hội nhập và toàn cầu. Không ít du khách đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu văn hoá. Trong số này, chúng ta đang bỏ quên một loại "thượng khách" mà lâu nay ta gọi một cách giễu cợt và không mấy thân thiện là "Tây ba lô". Đa số họ đều rất đáng mến. Do đó, chúng tôi mong muốn mọi người được hiểu thêm về những du khách này cũng như để chúng ta có thê hiểu rõ hơn về tâm lý của du khách “Tây ba lô” khi đến với văn hóa Việt Nam. NỘI DUNG Khái quát về đất nước và con người việt nam Vị trí địa lý Tại sao Việt Nam lại thu hút hàng năm gần 4 triệu lượt du khách nước ngoài. Một trong số các nguyên nhân có thể xác nhận đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa, đa dạng sinh học. Không thể không không kể đến chiều dài miên man của bờ biển Việt Nam với biết bao bãi biển được ghi nhận là có những vẻ đẹp nằm trong các bản xếp hạng thế giới. Phía Nam của Việt Nam các bạn có thể thoải mái tắm quanh năm. Những cồn cát trắng xoá và những bãi biển trong đến đáy ấm quanh năm là những lợi thể không thể bỏ qua khi nhắc đến Việt Nam. Việt Nam còn thu hút bởi vô vàn di tích lịch sử, những tượng đài tưởng nhớ công lao của biết bao vị anh hùng dân tộc. Qua đó cỏ thể tường thuật lại toàn bộ quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc qua gần 4000 năm. Tôn giáo việt nam với 6 tôn giáo chính là phật giáo, thiên chúa giáo, đạo cao đài, phật giáo hòa hảo, đạo tin lành, hồi giáo Những món ăn đậm chất Việt cũng là điều thu hút khách du lịch. Nhưng quan trọng nhất chính là con người, với 54 dân tộc cùng chung sống hòa thuận,dân tộc Việt hiếu khách và cần cù, đó chính là đặc trưng tiêu biểu khiến nhiều khách du lịch ấn tượng. Chính trị Không thể phủ nhận được việc Việt Nam có một nền chính trị ổn định là điều thu hút đặc biệt đối với du khách. Khi khách du lịch đến một cuốc gia không nội chiến, không đấu tranh sắc tộc, không biểu tình giữa các đảng phái thì quả thật Việt Nam đã ghi điểm rất lớn. Việc ổn định về chính trị cũng khiến không chỉ ngàng du lịch phát triển mà tất cả các công tác đối nội, đối ngoại và thông thương giữa Việt Nam và các nước trên thế giới ngày càng phát triển hơn. Tính cách con người Việt Nam Con người hiền hòa, dễ mến, cởi mở Trọng tình cảm Đề cao cộng đồng Cần cù lao động Thông minh sáng tạo, khéo léo Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh Có tinh thần đoàn kết, tương than tương ái Yêu hòa bình, nhẫn nhịn Đặc điểm tâm lý của Tây balo Khái quát về Tây balo Tây "ba lô"(Backpackers- Travel on a budget) là cái tên mà người Việt Nam thường gọi khách du lịch nước ngoài đi riêng lẻ, với chiếc ba lô trên lưng,tay lăm lăm một tấm bản đồ, rong đuổi khắp nơi trên các đường phố, thích sử dụng dịch vụ rẻ tiền và ăn những thức ăn không cầu kỳ của giới bình dân. Những nhân vật như thế có thể thấy ở bất kỳ nơi nào, từ giữa đường phố nhộn nhịp cho đến nông thôn hẻo lánh.Họ thường là những sinh viên, người có thu nhập thấp thích đi du lịch và cả những người có sở thích chi tiêu "tiết kiệm". Hình 1. Khách tây Balo Tây balo thực chất là loại hình du lịch tự do, không nước nào không có, nhất là ở thị trường du lịch mới. Nói chung những người đi du lịch theo loại hình này là những người dung cảm. Ngoài mục đích du lịch thông thường, họ còn tìm tòi khám phá những miền đất mới, những nền văn hóa mới Tây xịn” thường đặt những khách sạn 4, 5 sao sang trọng, “Tây ba lô” thì tìm những nhà nghỉ nhỏ hơn để tá túc với mức giá từ 10 - 15 đôla cho một ngày đêm. Sau khi kiếm được chỗ ngủ rồi, cuộc hành trình khám phá Việt Nam của những vị khách “Tây ba lô” bắt đầu. Đặc điểm Phần lớn ở tuổi thanh niên. Đi du lịch với hành lý giản dị, đây là những người thật sự đến với cảnh quan thiên nhiên và con người việt nam với tính tò mò ham hiểu biết của họ. Tây balo thường có thói quen đọc sách và ghi chép. Thường tìm kiếm thiên nhiên qua nhiều kênh khác nhau rồi quyết định tour của Việt Nam Phương tiện giao thông chủ yếu là tàu hỏa, tại điểm tham quan thường dùng xe ô tô hoặc thuê xe đạp, xe ôm. Hình 2. Khách tây Balo Tất cả các dân Tây balo đều chú trọng chăm sóc đôi chân bởi vì họ dùng chân rất nhiều Luôn tiết kiệm chi phí tối đa, khai thác tối đa các yếu tố địa phương với mục đích đi được nhiều nơi Tây ăn uống dễ dãi, ăn sáng trên vỉa hè hay trong các quán ăn bình dân của người Việt. Mua trái cây bán gánh chứ không mua trong tiệm Hình 3. Du khách đang thưởng thức món ăn Việt Nam Ăn uống đơn giản, bánh mì kẹp thịt, và tất cả các món ăn việt nam tại quán bình dân, uống bia hơi chấp nhận các món ăn điểm tâm từ 5000đ – 10000đ/bữa. Bữa ăn chính không quá 25000đ/bữa. Cứ quán nào đông khách du lịch Balo là vào và rất chung thủy với sản phẩm Hình 4. Du khách đang thưởng thức bia tại một quán bên vỉa hè Thuê phòng 6 – 15 USD cho 2 – 4 người/phòng thậm chí còn thấp hơn Thời gian lưu lại các điểm du lịch thường từ 2 – 3 ngày. Điều cần lưu ý khi tiếp xúc với Tây balo Người nước ngoài khi đến Việt Nam thì phải nhập gia tuỳ tục, tuy nhiên có một số thói quen của người Việt và của người Tây mà ta nên biết hay nên tránh khi tiếp xúc. Chỉ khạc đờm, nhổ nước bọt trong phòng vệ sinh. Người Tây thường không có các tính: nói vòng vo, làm bộ khách sáo. Tránh nói chuyện về da đen da trắng và chuyện Đức Quốc Xã, Do Thái. Đừng để người Tây thấy đang cắt móng tay, móng chân. Họ cho cắt móng là bẩn thỉu. Không bàn về sự béo phì và sự có nhiều lông lá của người Tây, nhất là phụ nữ (dù đó là sự thật). Khi có người nước ngoài ta nên tránh xỉa răng. Còn không thì nên lấy tay che miệng hay ngậm môi lại và kín đáo xỉa. Nhớ nói cảm ơn, khi người ta tự ý làm một việc gì tốt cho bạn, đưa cho bạn bất cứ cái gì, trả lời một câu hỏi hay một thắc mắc của bạn. Không nên tự động ghé mắt, chồm người để đọc ké khi người Tây đang cầm tờ báo, tờ rơi, hay bức hình, để xem, dù là bạn đang ngồi ở cái ghế bên cạnh. Tại nơi công cộng đừng đứng, ngồi quá gần người Tây, trừ trường hợp chổ chật; cũng đừng nắm tay hay quàng vai người cùng giới tính với mình ngay cả đối với bạn thân. Tránh ợ khi ăn uống. Nếu có thì nên nói sorry lập tức – chỉ nói nho nhỏ, vừa đủ nghe một cách tự nhiên như nói với chính mình và không cần nhìn xem họ có nghe thấy hay không. Không dùng ngón tay ngoáy mũi hay ngoáy lổ tai. Khi bị ngứa không thể chịu nỗi, người Tây thường dùng khớp đốt tay, mặt ngoài của ngón tay, bàn tay để cà, ấn, chạm vào chổ ngứa. Không nên hỏi tuổi, nhất là hỏi tuổi người nữ và tránh bàn về lý do tại sao chưa có chồng, chưa có con, dù trông họ không còn trẻ. Cũng không nên hỏi một tuần/ tháng/ năm làm được bao nhiêu tiền. Tránh chỉ trỏ ngón tay vào mặt người Tây và tuyệt đối không dùng ngón tay giữa để chỉ, trỏ, làm dấu hiệu Tại Âu Mỹ, người dân không có thói quen trả giá, bởi vậy họ muốn mọi thứ có ghi giá cả rõ ràng (như ở nước của họ), để tránh trường hợp hiểu lầm hay bị lừa. Mọi thông tin, giải thích (nếu có) cũng nên được trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Khi người Tây muốn bạn đoán xem họ bao nhiêu tuổi, dù trong đầu bạn nghĩ rằng người ấy khoảng 40 tuổi, bạn nên trừ đi khoảng 10-15 tuổi và trả lời, bạn nghĩ chừng 25 hay 30. Nói chung rất khó đoán được tuổi thật nhưng cũng không nên cố gắng biết, vì trả lời khôn khéo, gây được cảm tình, làm cho họ vui quan trọng hơn nhiều. Người nước ngoài thường nễ trọng và đánh giá cao những người có tinh thần dân tộc hay tinh thần yêu nước. Họ cũng thích gặp gỡ những người như vậy để tìm hiểu về Việt Nam. Bạn có thể khen phương Tây đủ thứ. Bạn cũng có thể chê Việt nam nhiều vấn đề nhưng đừng để họ có suy nghĩ là bạn chê tất cả mọi thứ về con người và nước của bạn. Người Tây thường tránh bàn chuyện chính trị, tôn giáo, chủng tộc và những tò mò đời tư với người mới biết, vì những đề tài này dễ gây cãi vã, không có lợi cho mối quan hệ. Họ coi trọng quyền riêng tư và quyền tự quyết, nên không muốn ai can thiệp vào chuyện gia đình của họ: chuyện dạy con hay cách sống của họ (ngay cả khi bạn đã biết họ nhiều hơn). Khi chào người Tây ta có thể nói “hi” hay gật đầu. Chỉ bắt tay khi được giới thiệu hay khi họ tự giới thiệu tên của họ. Người Tây có thói quen hay khen, khen đủ thứ một cách tự nhiên như là họ thật sự nghĩ như vậy, vì vậy ta nên vô tư chấp nhận lời khen xã giao của họ. Người Tây, nhất là phái nữ, rất sợ khi thấy dán, nhện, trong phòng khách sạn hay tại quán ăn. Lang thang ngoài đường hay ngồi ăn mà thấy chuột họ cũng ghê tởm và cho rằng chổ ăn hay chổ ở đó không đạt tiêu chuẫn vệ sinh. Khi uống rượu bia, người Việt có thói quen ép lẫn nhau và ráng uống cho thật nhiều, ít khi để ý đến hậu quả sau đó hay ngày hôm sau phải đi làm. Trong khi người Tây có thói quen uống bia rượu là để thưởng thức, để xã giao, nên họ uống một cách thoải mái, uống tạm đủ chứ không ai ép ai, bởi vậy, họ không bị say sưa, không nói bậy, không đánh mất sự tự chế.. Người Tây có tính kỷ luật, tôn trọng luật lệ và sự trật tự. Họ có thói quen xếp hàng. Họ tôn trọng quyền của người đến trước. Tuy nhiên, khi đến Việt Nam thì họ cũng nhanh chóng học theo cái thói chen lấn xô đẫy của người Việt. Cái nhìn của du khách ( Tây Balo) về đất nước Việt Nam Tích cực Ẩm thực Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng. Như chúng ta đã biết, văn hóa ẩm thực là một phần văn hóa nằm trong tổng thể, phức thể các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm. khắc họa một số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc giaNó chi phối không nhỏ trong cách ứng xử và giao tiếp của cộng đồng. Do đó, ẩm thực của Việt Nam rất phong phú, mỗi địa phương đều có những đặc sản riêng, mang đậm bản sắc phong phú và hương vị của từng nơi. Ẩm thực miền Bắc: Phở. Hình 5. Phở bò Gần như không thể đi bộ qua một khối nhà ở các thành phố lớn của Việt Nam mà không gặp một đám đông khách quen đói meo đang xì xụp tại một hàng phở bình dân. Nguyên liệu chính đơn giản gồm có nước dùng đậm đà, bánh phở tươi, một chút rau thơm và thịt gà hoặc thịt bò. Món ăn này ngon, rẻ và bạn muốn ăn bất kỳ giờ nào trong ngày cũng có. Chả cá Hình 6. Chả cá Lã Vọng Đối với người Hà Nội, chả cá đặc biệt đến mức có hẳn một con phố ở thủ đô dành riêng cho những miếng cá rán này - phố chả cá. Con phố cùng tên là nơi bạn có thể thưởng thức chả cá Lã Vọng - những miếng cá ướp tỏi, gừng, nghệ và thì là xèo xèo trên một chiếc chảo nóng. Cốm làng Vòng – Chè cốm Miền Bắc có nhiều làng làm cốm nhưng không đâu nổi tiếng bằng thương hiệu cốm làng Vòng.Từng hạt cốm xanh mát, gói trong lá sen thơm dịu mang hơi thở thu tới mọi phố phường Hà Nội. Cứ mỗi độ sen tàn, nắng thu lan tỏa trên những phố phường là lúc người dân Hà Nội nghe văng vẳng tiếng rao cốm, hay nhìn thấy những quang gánh, xe đạp chở mẹt cốm dạo qua thành phố Hình 7. Cốm làng Vòng. Hình 8. Chè cốm. Ẩm thực miền Trung: Cao lầu được ăn với rất ít nước dùng. Một điểm đặc biệt của món Cao lầu đó là sợi mỳ có màu vàng ươm, do được trộn với tro củi tràm, được lấy từ mảnh đất Cù Lao Chàm. Phải một lần đặt chân đến đất Hội An, cảm nhận không gian nhỏ nhắn và cổ kính nơi đây và thưởng thức một bát Cao lầu thơm nóng mới có thể thấm nhuần phần nào hương vị của một vùng đất xưa tinh túy của Việt Nam. Hình 9. Cao lầu Hình 9. Cơm hến xứ Huế Hình10. Ẩm thực cung đình Huế Ẩm thực Dân gian Huế là cách chế biến món ăn theo nguyên lý chế biến, trang trí và những thói quen ăn uống rất riêng của người Huế và Một bữa ăn của người Huế như hội tụ đủ cả âm dương, ngũ hành với sự hài hòa đến mức tự nhiên giữa tính chất, mùi vị, màu sắc của các món ăn. Muốn mặn thì có vài chục vị ruốc, ngọt thì có một chuỗi các loại chè, béo thì có Bún bò, đắng thì có Cháo nấm tràm, cay thì dùng cơm hến, Sự đậm đà đó đã tạo nên hượng vị rất đặc trưng trong món ăn Huế.Những món ăn Huế dù là cao lương mỹ vị hay dân dã đơn sơ, đều làm cho ai đó một lần nếm qua phải xuýt xoa khen ngon đến mức ngậm mà nghe, để rồi lưu luyến mãi cái hương vị khó quên ấy. Hình 11. Bún bò Huế Đặc biệt khi nhắc đến văn hóa ẩm thực Huế ta cũng không thể không nhắc đến chè Huế. Ở Huế có tới mấy chục loại chè, có những loại chè mang nét sang trọng của chốn Cung đình xưa như chè hạt sen, Chè long nhãn bọc hạt sen, Chè đậu ngự. Tất cả đã làm và hình thành lên một “vương quốc chè”. Chính những phong cách và mang bản sắc đó người Huế đã xem ẩm thực là nhân cách. Hình 12. Chè Sen Ẩm thực miền Nam: Bánh xèo Hình 13. Bánh xèo Một chiếc bánh xèo ngon phải giòn, phồng lên với nhân tôm, thịt heo, giá đỗ và trang trí bằng rau thơm tươi. Đó là đặc trưng của hầu hết các món ăn Việt Nam đích thực. Để thưởng thức như một người dân địa phương, hãy cắt bánh thành những miếng nhỏ vừa miệng, cuộn trong bánh tráng hoặc lá rau diếp và nhúng nó vào thứ nước chấm đặc biệt đầu bếp pha cho bạn. Bánh khọt Hình 14. Bánh khọt Vỏ bánh giòn được làm bằng bột pha nước cốt dừavà nhân thường bao gồm tôm, đậu xanh, hành tươi với một lớp tôm khô ở trên. Bún bò Nam bộ Hình 15. Bún bò Nam bộ Món bún này không có nước dùng. Những lát thịt bò mềm trộn lẫn với lạc giòn và giá đỗ, thêm rau thơm, hẹ tây khô, sau đó rưới nước mắm và tiêu ớt cay nồng. Bún mắm miền Tây Hình 16. Bát bún mắm đầy màu sắc thật thơm ngon và hấp dẫn Du khách không cần đến những nhà hàng sang trọng mà vẫn có thể thưởng thức các món ăn này ngay trên các quán vỉa hè. Hình ảnh những ông Tây ngồi vỉa hè, xì xụp tô bún mắm bốc khói hay xuýt xoa với bát bún bò cay nồng... đã trở nên quá quen thuộc trong mắt những người dân sống ở chung cư Nguyễn Đình Chiểu (quận 1).Đến đây vào mỗi buổi trưa, bạn sẽ thấy rất nhiều du khách Tây đang chen chúc nhau bên những chiếc bàn con để thưởng thức các món ăn đặc trưng của người Việt như: bún mắm; bún bò; bún thịt nướng; hủ tiếu... được thay đổi theo từng ngày. Văn hóa – nghệ thuật. Văn hóa: Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nên văn hóa Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hóa Việt-Mường mang tính tiêu biểu, còn có các nhóm văn hóa đặc sắc khác như Tà-Nùng, Thái, Chàm, Hoa-Ngái, Môn-Khmer, H’Mông-Dao, nhất là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên giữ được những truyền thống khá phong phú và toàn diện cuả một xã hội thuần nông nghiệp gắn bó với rừng núi tự nhiên. Phong tục tập quán: Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...). Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội chùa). Lễ hội có 2 phần, phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt văn hóa cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian. Tín ngưỡng là thờ cúng ông bà, tổ tiên, có ngày giỗ tổ chung (Hội đền Hùng). Đặc biệt việc thờ Tứ Bất Tử là thờ những giá trị rất đẹp của dân tộc: Thánh Tản Viên (chống lụt), Thánh Gióng (chống ngoại xâm), Chử Đồng Tử (nhà nghèo cùng vợ ngoan cường xây dựng cơ nghiệp giầu có), bà Chúa Liễu Hạnh (công chúa con Trời từ bỏ Thiên đình xuống trần làm người phụ nữ khát khao hạnh phúc bình thường). Tôn giáo chủ yếu là phật giáo và đạo thiên chúa. Nghệ thuật: Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc, trong đó bộ gõ là phổ biến nhất, đa dạng nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất (trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng...). Bộ hơi phổ biến là sáo, khèn, còn bộ dây độc đáo nhất có đàn bầu và đàn đáy. Những cửa hàng bày bán các sản phẩm văn hóa đặc trưng của người Việt, từ trước đến nay vẫn có sức thu hút kỳ lạ đối với khách nước ngoài. Các chàng trai, cô gái phương Tây cảm thấy vô cùng thích thú khi được sờ nắn, được thử chơi các nhạc cụ dân tộc trên phố Hàng Gai. Hình 17. Khách tây thích thú bên nhạc cụ Việt Nam Họ cũng rất thích ngắm những đồ lưu niệm trên con phố Hàng Ngang, Hàng Đào; hay cố gắng một lần đặt chân vào căn nhà gỗ số 87 Mã Mây để hòa vào không gian rất Việt Nam. Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý, ngoài ra còn có hát xẩm, chầu văn, ca trù. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng. Rối nước cũng là một loại hình sân khấu truyền thống đặc sắc có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu vọng cổ. Con người: Những cảnh sinh hoạt đời thường đã thu hút nhiều du khách ba-lô đến Việt Nam, đất nước được coi là thân thiện và mến khách. Con người ở đây luôn niềm nở, thân thiện đem lại ấn tượng tốt trong lòng khách du lịch. Danh lam thắng cảnh Ngày càng nhiều du khách chọn Việt Nam làm điểm đến du lịch bởi Việt Nam sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh và một trong những bờ biển đẹp nhất thế giới, cũng bởi lòng cảm phục trước một đất nước nhỏ bé mà vô cùng kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Việt Nam có vô vàn cảnh đẹp và lạ lẫm, từ những vùng nông thôn cho tới những ngôi đền hay lăng mộ cổ kính.  Bán đảo Sơn Trà: Nằm gần thành phố Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà có đường bờ biển dài đầy cát trắng, nước biển trong xanh như ngọc, những dãy san hô đầy màu sắc lấp ló bên dưới mặt nước và cả những cánh rừng rậm rạp trải trên những ngọn núi hùng vĩ. Bán đảo Sơn Trà có nhiều bãi tắm, trong đó có bãi Bắc, bãi Nam và bãi Phật. Cũng được biết đến với cái tên Đảo Khỉ, nơi đây gây ấn tượng mạnh với du khách khi đứng trên đỉnh núi cao ngắm nhìn xuống thành phố Đà Nẵng. Hình 18. Bán đảo Sơn Trà Lăng mộ nhà Nguyễn: Lăng mộ này nằm gần thành phố Huế, trải dài dọc theo bờ con sông Hương thơ mộng. Đây là một trong số những địa điểm được ưa chuộng nhất tại Việt Nam. Hình 19. Lăng mộ nhà Nguyễn Đảo Phú Quốc: Đảo Phú Quốc với những bãi biển tuyệt đẹp. Du khách muốn đến với đảo Phú Quốc – hòn đảo còn giữ được nhiều vẻ đẹp nguyên sơ. Ngoài những cánh rừng nguyên sinh rậm rạp sâu trong đất liền, các bãi biển của Phú Quốc đều là những bãi cát dài với làn nước trong vắt. Dưới mặt nước biển là bãi san hô với thảm thực vật phong phú. Hình 20. Đảo Phú Quốc Đồng bằng sông Cửu Long: Phù sa của sông Cửu Long đã mang lại cho vùng đất nơi đây những thảm thực vật đa dạng. Vùng đất này không chỉ mạnh về ngành nông nghiệp mà còn là một khu bảo tồn thiên nhiên rộng lớn. Tới đây, du khách có cơ hội khám phá cuộc sống, hoạt động thường ngày của người dân những khu chợ nổi và của những n
Luận văn liên quan