Ngân hàng là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu báo hiệu trạng thái sức khoẻ của nền kinh tế. Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính nhận tiền gửi và tiến hành các hoạt động cho vay và đầu tư. Ngân hàng đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội như là người mở đường, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Trong số các nghiệp vụ kinh doanh của mình thì tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và cũng là nội dung chủ yếu của bản thân các nhân viên của toàn hệ thống. Đây là nghiệp vụ tạo ra lợi nhuận cao nhất, nó chiếm khoảng 2/3 lợi tức nghiệp vụ ngân hàng có từ tiền lãi cho vay. Nhưng đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Có vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn làm cho ngân hàng bị phá sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế.
Quá trình phát triển của Việt Nam theo hướng CNH - HĐH theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Đảng, Nhà nước đòi hỏi việc triển khai ngày càng nhiều các dự án đầu tư, với nguồn vốn trong và ngoài nước, thuộc mọi thành phần kinh tế. Đó cũng đặt ra một thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng về sự an toàn và hiệu quả của nguồn vốn cho vay theo dự án. Bởi vì, các dự án đầu tư thường đòi hỏi số vốn lớn, thời gian kéo dài và rủi ro rất cao.Do đó vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng, không chỉ việc cung ứng vốn kịp thời và đầy đủ mà ngân hàng còn đóng vai trò hạn chế những tổn thất kinh tế do việc thực hiện các dự án không khả thi thông qua vai trò thẩm định các dự án độc lập. Chính vì vậy, nhóm em đã đi sâu và tìm hiểu công tác thẩm định cho vay trong các dự án. Do đó, nhóm em xin trình bày về một phần nhỏ của nội dung trong công tác thẩm định đó là: Thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng để làm rõ thêm nội dung này.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11397 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng (Môn: Thẩm định tín dụng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ TÀI CHÍNH VĨNH LONG
KHOA TÀI CHÍNH
&
TIỂU LUẬN
MÔN: THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG.
KHÓA : K6
LỚP: NGÂN HÀNG 1
NHÓM THỰC HIỆN: 01
GVHD: BÙI THÀNH QUÍ
Vĩnh Long, tháng 10 năm 2012.
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
ĐIỂM:
DANH SÁCH NHÓM
MSSV
HỌ VÀ TÊN
NHIỆM VỤ
CÔNG VIỆC
HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC
010
Nguyễn Thị Bảo Châu
Tìm tài liệu chương II,hoàn tất,
95%
015
Nguyễn Thị Kim Cúc
Tìm tài liệu chương II.
95%
030
Võ Thanh Hà
Tìm tài liệu chương II, hoàn tất
95%
044
Bùi Thị Kim Hoanh
Tìm tài liệu chương II, hoàn tất.
95%
063
Nguyễn Chí Linh
Tìm tài liệu chương II, làm bìa.
95%
143
Trần Nguyễn Minh Thông
Tìm tài liệu phần kết bài,lập bài nháp
95%
182
Đỗ Tường Vi
Tìm tài liệu phần mở đầu, lập bài nháp
95%
Tìm tài liệu chương II, lập bài nháp.
95%
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU. 5
NỘI DUNG. 6
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ TÍN DỤNG. 6
1. Các khái niệm chung về tín dụng: 6
2. Vấn đề đặt ra đối với công tác thẩm định. 6
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC
PHÁP LÝ CỦA KHÁCH HÀNG. 7
I. NỘI DUNG THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC PHÁP LÝ. 7
1. Khái niệm. 7
2. Mục đích thẩm định khách hàng. 8
3. Phương pháp thẩm định. 8
4. Phân loại tư cách pháp lý. 8
5. Điều kiện được vay vốn. 10
6. Một số điểm cần lưu ý khi xem xét, đánh giá năng
lực pháp lý của khách hàng doanh nghiệp. 11
7. Nội dung bộ hồ sơ pháp lý. 13
II.GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG. 14
1. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. 14
2. Giải pháp hỗ trợ đẩy mạnh chất lượng tín dụng. 17
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 21
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu báo hiệu trạng thái sức khoẻ của nền kinh tế. Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính nhận tiền gửi và tiến hành các hoạt động cho vay và đầu tư. Ngân hàng đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội như là người mở đường, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Trong số các nghiệp vụ kinh doanh của mình thì tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và cũng là nội dung chủ yếu của bản thân các nhân viên của toàn hệ thống. Đây là nghiệp vụ tạo ra lợi nhuận cao nhất, nó chiếm khoảng 2/3 lợi tức nghiệp vụ ngân hàng có từ tiền lãi cho vay. Nhưng đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Có vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn làm cho ngân hàng bị phá sản gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế.
Quá trình phát triển của Việt Nam theo hướng CNH - HĐH theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Đảng, Nhà nước đòi hỏi việc triển khai ngày càng nhiều các dự án đầu tư, với nguồn vốn trong và ngoài nước, thuộc mọi thành phần kinh tế. Đó cũng đặt ra một thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng về sự an toàn và hiệu quả của nguồn vốn cho vay theo dự án. Bởi vì, các dự án đầu tư thường đòi hỏi số vốn lớn, thời gian kéo dài và rủi ro rất cao.Do đó vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng, không chỉ việc cung ứng vốn kịp thời và đầy đủ mà ngân hàng còn đóng vai trò hạn chế những tổn thất kinh tế do việc thực hiện các dự án không khả thi thông qua vai trò thẩm định các dự án độc lập. Chính vì vậy, nhóm em đã đi sâu và tìm hiểu công tác thẩm định cho vay trong các dự án. Do đó, nhóm em xin trình bày về một phần nhỏ của nội dung trong công tác thẩm định đó là: Thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng để làm rõ thêm nội dung này.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG:
1. Các khái niệm chung về tín dụng:
“Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”.Gồm các loại:
-Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu các khoản vật liệu hay nguyên vật liệu hàng hóa, công cụ lưu thông của tín dụng thương mại thường là các thương phiếu.
-Tín dụng nhà nước:
+ Là mối quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tầng lớp dân cư hoặc với các tổ chức được thực hiện dưới hình thức chính phủ phát hành các công trái để huy động vốn của nhân dân và tổ chức trong xã hội.
+ Loại hình tín dụng này giúp ngân sách nhà nước kích thích kinh tế phát triển và giải quyết một phần thất nghiệp nhờ đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
-Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn giữa ngân hàng và khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
-Tín dụng tiêu dùng:
+ Là loại tín dụng đáp ứng nhu cầu của tầng lớp dân cư trong xã hội để mua sắm phương tiện sinh hoạt và nhà ở.
+ Tín dụng tiêu dùng được thực hiện qua việc bán hàng trả góp để kích thích tiêu dùng bằng thu nhập trong tương lai, trong dân chúng.
-Tín dụng quốc tế: Là mối quan hệ cho vay và sử dụng vốn lẫn nhau giữa các nước, các tổ chức của nhà nước, các tổ chức quốc tế, các DN xuất nhập khẩu…Loại tín dụng này thường là dài hạn và nhằm mục đích trợ giúp những nước đang phát triển
2. Vấn đề đặt ra đối với công tác thẩm định:
Để có thể giảm thiểu đến mức thấp nhất những khoản nợ xấu và đưa ra quyết định phù hợp, thẩm định là một trong những khâu quan trọng trong việc ra quyết định cho vay giúp ngân hàng phòng ngừa được rủi ro đối với các khoản nợ.
Đồng thời, quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Hòa mình vào xu thế chung, nền kinh tế nước ta hiện nay đã và đang trong giai đoạn thực hiện đổi mới toàn diện nhằm tạo những bước chuyển biến mạnh mẽ đưa đất nước nhanh chóng đi lên. Phấn đấu từ nay đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội[2]”. Muốn vậy các phương án đầu tư cần phải đồng bộ, phải được triển khai nhanh chóng và mang lại hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những thay đổi trong quá trình hội nhập và do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Thị trường tài chính Việt Nam đang biến động mạnh mẽ, việc cho vay và cung ứng vốn nhằm triển khai các phương án đầu tư gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và trở ngại.
Do vậy, tín dụng ngân hàng được coi là đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế. Nghiệp vụ này không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà nó còn là nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của từng ngân hàng. Đi liền với nó, chất lượng tín dụng làm sao có thể hỗ trợ tốt nhất, là cơ sở để phán quyết tín dụng đúng đắn, tăng tính bền vững và độ an toàn cao của các phương án được tài trợ.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC PHÁP LÝ CỦA KHÁCH HÀNG:
I. NỘI DUNG THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC PHÁP LÝ :
1. Khái niệm:
Thẩm định tín dụng là việc sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích nhằm kiểm tra, đánh giá mức độ tin cậy và rủi ro của một dự án khách hàng đã xuất trình nhằm phục vụ cho việc ra quyết định tín dụng.
Thẩm định tín dụng là một rong những khâu rất quan trọng trong toàn bộ qui trình tín dụng. Do đó, để đảm bảo được mục tiêu thu hồi nợ, thẩm định tín dụng cần tập trung vào các nội dung chính sau đây:
+ Thẩm định về tư cách của khách hàng.
+ Thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh.
+ Phân tích tình hình tài chính.
+ Thẩm định phương án sản xuất kinh doanh.
+ Ước lượng và kiểm soát rủi ro.
+ Các nội dung khác.
2. Mục đích thẩm định khách hàng:
Mục đích của thẩm định tín dụng là việc ra quyết định cho vay. Việc thẩm định khách hàng và phân tích hồ sơ và phương án vay vốn do chuyên viên phân tích tín dụng chịu trách nhiệm thực hiện với sự phối hợp của chuyên viên khách hàng có liên quan. Do vậy, để giúp cho cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có thể mạnh dạn và tránh sai lầm trong quyết định cho vay, thẩm định tín dụng cần đạt được các mục tiêu sau:
+ Đánh giá được mức độ tin cậy của dự án đầu tư mà khách hàng đã lập và nộp cho ngân hàng khi làm thủ tục vay vốn.
+ Phân tích và đánh giá được mức độ rủi ro của dự án khi quyết định cho vay. Giảm xác suất của hai loại sai lầm khi quyết định cho vay: (1) cho một dự án tồi và (2) từ chối cho vay một dự án tốt.
3. Phương pháp thẩm định.
Ngoài việc kiểm tra, xem xét, thẩm định qua hồ sơ xin cấp tín dụng do khách hàng cung cấp, cán bộ thẩm định phải điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin về khách hàng để việc đánh giá, phân tích được toàn diện.
Các nguồn thông tin chính bao gồm: thông tin do khách hàng cung cấp, thông tin do cán bộ thẩm định tự điều tra từ các nguồn thông tin khác (mạng thông tin tín dụng, phương tiện truyền thông, từ các Bộ, Ngành, Hiệp hội ngành nghề, các đơn vị có quan hệ với khách hàng ...).
4. Phân loại tư cách pháp lý.
Trong quan hệ giữa người với người, các bên được gọi là chủ thể. Trên nguyên tắc, mọi cá nhân đều có tư cách pháp lý, nhưng với tổ chức thì không phải. Để được Nhà nước công nhận có tư cách pháp lý, chủ thể cần phải đáp ứng ít nhất một hoặc cả hai điều kiện sau:
- Có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ theo quy định của pháp luật (năng lực pháp luật)
- Có khả năng thực tế (được pháp luật thừa nhận) để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý (năng lực hành vi)
* Tư cách thể nhân là tư cách pháp lý được Nhà nước công nhận cho một cá nhân (con người bằng xương, bằng thịt). Người này được gọi là thể nhân. Mỗi cá nhân đang hiện hữu trong xã hội đều được Nhà nước công nhận tư cách thể nhân, bất kể họ đã trưởng thành hay chưa, có nhận thức được hoặc phát triển có bình thường hay không: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết” (Điều 16 Bộ luật dân sự năm 1995).
* Tư cách pháp nhân là tư cách pháp lý được Nhà nước công nhận cho một tổ chức (nhóm người) có khả tồn tại và hoạt động độc lập trước pháp luật. Tổ chức này được gọi là pháp nhân (là con người trên phương diện pháp lý chứ không phải con người thực thể). Khác với thể nhân, không phải tổ chức nào, tập thể nào cũng đều được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân. Theo điều 94 BLDS năm 1995, một tổ chức muốn được công nhận tư cách pháp nhân phải hội dủ các điều kiện cơ bản sau:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ xã hội một cách độc lập.
Một pháp nhân luôn luôn đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Theo điều 110 BLDS năm 1995, ở nước ta có các loại pháp nhân sau:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội;
- Tổ chức kinh tế;
- Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp;
- Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
- Các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 BLDS.
* Một số tư cách pháp lý đặc biệt:
Hộ gia đình, tổ hợp tác là những tập thể chỉ được luật pháp cho phép tham gia một số quan hệ pháp luật nhất định như: quan hệ đất đai, quan hệ dân sự, thương mại,… (xem Bộ luật dân sự 1995, chương IV từ điều 116 đến 129).
Từ đó kết luận: Khách hàng có đủ tư cách pháp nhân để xác lập mối quan hệ tín dụng với ngân hàng hay không? Trường hợp chưa đủ thì cần bổ sung những văn bản pháp lý khác.
5. Điều kiện được vay vốn:
Vốn vay phải được sử dụng đúng theo mục đích mà khách hàng đã dăng ký với ngân hàng. Để đảm bảo nguyên tắc này các Ngân hàng phải thường xuyên giám sát và kiểm tra việc sử dụng vốn cúa các cá nhân. Đồng thời cũng như mọi khoản vay khác, các khoản vay của các khách hàng cá nhân cần đảm bảo trả đúng trả đủ cho ngân hàng theo các thoả thuận đã ký kết trong hợp đồng.Và những nội dung được yêu cầu cho công tác thẩm định.Đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng:
+ Khách hàng xin cấp tín dụng phải có đủ năng lực pháp lý theo quy định của pháp luật, phải có đủ hồ sơ chứng minh năng lực pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
+ Đối với các khách hàng xin cấp tín dụng là pháp nhân phải kiểm tra tính pháp lý của "người đại diện pháp nhân" theo quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, theo yêu cầu của loại hình cấp tín dụng, phải xem khách hàng có thoả mãn các điều kiện thuộc đối tượng cấp tín dụng hay không.
+ Đánh giá quan hệ của khách hàng với các Tổ chức tín dụng
+ Đánh giá chung về khách hàng xin cấp tín dụng.
* Thông tin (cá nhân, tổ chức): cần kiểm tra một số nội dung chính về cá nhân như năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ Luật dân sự, hộ khẩu thường trú, chứng minh thư, tuổi, địa chỉ cư trú, ...
*Tài chính (Thu nhập).
* Uy tín của khách hàng : phân tích các khoản vay, nợ của khách hàng, chủ đầu tư với các Tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các khoản vay tín dụng ngắn hạn, trung hạn, bảo lãnh (kể cả bảo lãnh trả chậm và bảo lãnh khác), doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ; đánh giá mức độ tín nhiệm trong quan hệ tín dụng của khách hàng với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong việc trả nợ tiền vay, doanh số tiền gửi, thực hiện các cam kết.
Việc đánh giá uy tín của khách hàng nhằm để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do chủ quan khách hàng gây nên như: rủi ro về đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường; đề phòng, phát hiện những âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng.
*Tài sản đảm bảo (đất, nhà, thiết bị, hàng hóa): như quy mô kinh doanh, công nghệ thiết bị, địa điểm hoạt động, loại hình sở hữu, những sản phẩm chính, những tiện ích, những mối quan hệ về tiêu thụ sản phẩm, quan hệ về tài chính. Doanh nghiệp phải xác định được vị thế của mình đối với khách hàng, xem xét chiến lược cạnh tranh qua việc phân tích điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp qua hoạt động sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
6. Một số điểm cần lưu ý khi xem xét, đánh giá năng lực pháp lý của khách hàng doanh nghiệp.
Để đánh giá năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn, điều quan trọng là phải biết được khách hàng thuộc loại hình doanh nghiệp nào, thành phần kinh tế nào, và những luật nào sẽ điều chỉnh việc thành lập cũng như hoạt động của khách hàng. Do đó, cần căn cứ vào loại hình doanh nghiệp, đối chiếu với những văn bản pháp qui (luật, nghị định, thông tư, quyết định, và các văn bản dưới luật khác) điều chỉnh từng loại hình doanh nghiệp, để từ đó đánh giá năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn. Đến thời điểm hiện nay, phạm vi điều chỉnh của một số bộ luật liên quan tới hoạt động của các loại hình doanh nghiệp được tóm tắt như sau:
+ Phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội khi được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần;
+ Phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp nhà nước: Công ty nhà nước; đối với doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần nhà nước, công ty TNHH nhà nước một hoặc hai thành viên trở lên, Luật DNNN chỉ quy định về thẩm quyền của chủ sở hữu nhà nước trong việc quyết định thành lập mới, tổ chức lại, giải thể và chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp này với tư cách là chủ sở hữu và quy định về quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với người được uỷ quyền đại diện phần vốn góp của nhà nước và công ty nhà nước. Việc tổ chức quản lý hoạt động và thực hiện các thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp;
+ Phạm vi điều chỉnh Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, và hợp đồng hợp tác kinh doanh có bên nước ngoài tham gia;
Sự mở rộng của khái niệm Doanh nghiệp Nhà nước: Nhằm tạo tiền đề và tiến tới hình thành một khung pháp lý thống nhất, bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 đã mở rộng khái niệm doanh nghiệp nhà nước hơn so với Bộ luật DNNN ban hành năm 1995, theo đó có 3 loại doanh nghiệp nhà nước, cụ thể như sau:
+ (1) DNNN có 100% vốn nhà nước, hoạt động theo Luật DNNN mới (năm 2005) được gọi là Công ty nhà nước (để phân biệt với DNNN có 100% vốn nhà nước nhưng hoạt động theo các luật khác);
+ (2) Công ty cổ phần, công ty TNHH một hoặc hai thành viên trở lên có 100% vốn Nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; và
+ (3) Công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên có cổ phần chi phối hoặc vốn góp chi phối của nhà nước, hoạt động theo Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chính vì có sự mở rộng khái niệm DNNN, nên nếu dùng chung một khái niệm DNNN thì dễ lẫn lộn giữa 3 loại DNNN nói trên, do vậy khi đánh giá năng lực pháp lý của DNNN, cần phải nẵm vững được DNNN đó thuộc loại hình gì. Mặc dù khái niệm DNNN bao gồm cả 3 loại doanh nghiệp nêu trên, nhưng các công ty cổ phần, công ty TNHH (dù có 100% vốn nhà nước hay vốn nhà nước chi phối), vẫn hoạt động theo Luật doanh nghiệp hoặc Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, từ việc thành lập, tổ chức lại, giải thể, chuyển đối ở hữu, tổ chức quản lý và hoạt động của các công ty này. Về loại hình DNNN thứ (2) và thứ (3) trên đây, Luật DNNN mới không can thiệp, không qui định chồng chéo với Luật Doanh nghiệp hoặc Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, mà chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với người đại diện vốn nhà nước tại các công ty cổ phần, công ty TNHH, mà mối quan hệ này chưa được điều chỉnh ở các luật đó.
Đối với khách hàng là doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc, trách nhiệm trả nợ chính và cuối cùng vẫn là pháp nhân có đơn vị hạch toán phụ thuộc đó, nên mọi giao dịch với ngân hàng: Mục đích vay vốn, mức vốn được phép vay, thời gian vay vốn, thời gian hoàn trả nợ vay, các hình thức bảo đảm tiền vay, ... đều phải được pháp nhân của đơn vị hạch toán phụ thuộc đó có ý kiến chính thức bằng văn bản.
Đối với công ty TNHH: Điều 42 Luật doanh nghiệp - Các hợp đồng phải được hội đồng thành viên chấp thuận qui định rõ: Nếu hợp đồng được ký mà chưa được Hội đồng thành viên chấp thuận trước (chậm nhất là 15 ngày trước khi ký), thì hợp đồng đó vô hiệu và được xử lý theo qui định của luật pháp. Do đó, để tránh rơi vào trường hợp hợp đồng vô hiệu, các hợp đồng kinh tế, dân sự, ... trong đó có quan hệ với ngân hàng như nội dung trong giấy đề nghị vay vốn do Giám đốc công ty ký (mức vốn đề nghị vay, mục đích sử dụng vốn vay, thời hạn vay trả, các hình thức bảo đảm tiền vay, ...) đều phải được Hội đồng thành viên chấp thuận trước bằng văn bản.
Khách hàng là công ty cổ phần: Hội đồng quản trị là cấp quyết định các nội dung như: Chiến lược phát triển của công ty, phương án đầu tư, bổ nhiệm và miễn nhiệm các chức danh giám đốc (tổng giám đốc) và cán bộ quản lý quan trọng khác của công ty.
Tất cả những lưu ý nêu trên để giúp cán bộ ngân hàng trong quá trình đánh giá năng lực pháp lý khách hàng.
Về yêu cầu đánh giá, kết thúc nội dung này, cán bộ ngân hàng phải nêu rõ và đánh giá được:
+ Tên khách hàng vay vốn;
+ Quyết định thành lập, cấp ra quyết định thành lập, ngành nghề lĩnh vực hoạt động. Ngành nghề lĩnh vực hoạt động hiện tại có phù hợp với lĩnh vực của dự án đầu tư mà khách hàng đặt vấn đề vay vốn tại ngân hàng hay không?;
+Người đại diện theo pháp luật của công ty;
+Chế độ hạch toán: Độc lập hay phụ thuộc.
Tuy nhiên việc tìm hiểu cần tiến hành khéo léo và tế nhị.
7. Nội dung bộ hồ sơ pháp lý:
+Đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác:
-Đăng ký kinh doanh (đối với những trường hợp pháp luật có quy định phải đă