Đề tài Thẩm quyền của tổ chức công đoàn trong lĩnh vực lao động

Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động. Công đoàn có vị trí rất quan trọng, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ công nhân viên chức và những NLĐ khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân viên và những NLĐ khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Theo pháp luật hiện hành công đoàn có thẩm quyền như sau: 1. Quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện của người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động: Đây là thẩm quyền của hệ thống công đoàn các cấp, biểu hiện rõ nét của mối quan hệ trong cơ chế ba bên. Sự tham gia này của tổ chức công đoàn đảm bảo ngay từ chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước nói chung (được quy định tại Điều 4 Luật công đoàn năm 1990, Điều 156 BLLĐ sửa đổi, bổ sung), doanh nghiệp nói riêng được xây dựng, ban hành đã thể hiện mối quan hệ hợp tác, sự tôn trọng của các đối tác với tổ chức công đoàn, qua đó quyền và lợi ích của NLĐ được thừa nhận và bảo đảm thực hiện. 2. Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động: Đây là một trong những nhóm quyền thể hiện chức năng tham gia vào hoạt động quản lí của tổ chức công đoàn. Vấn đề này đã được quy định tại Điều 12, khoản 3 Điều 181 BLLĐ sửa đổi, bổ sung; và khoản 3 Điều 6, Điều 9 Luật công đoàn năm 1990. Nó bao gồm tất cả các lĩnh vực trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới quan hệ lao động (hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, thời giờ làm việc và nghĩ ngơi, tiền lương, an toàn lao động, về sinh hoạt lao động, bảo hiểm xã hội ). Đối tượng tham gia rộng rãi bao gồm tất cả các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp có thuê mướn, sử dụng lao động. Hình thức thực hiện cũng đa dạng, công đoàn có thể tự mình tổ chức việc kiểm tra, giám sát (Khoản 3 Điều 6 Luật công đoàn) hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan (Khoản 4 Điều 6 Luật công đoàn; Điều 189 Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung). Pháp luật cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quyền kiểm tra, giám sát của công đoàn được thực hiện (quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 9 Luật công đoàn).

doc4 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2083 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thẩm quyền của tổ chức công đoàn trong lĩnh vực lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động. Công đoàn có vị trí rất quan trọng, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ công nhân viên chức và những NLĐ khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân viên và những NLĐ khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Theo pháp luật hiện hành công đoàn có thẩm quyền như sau: 1. Quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện của người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động: Đây là thẩm quyền của hệ thống công đoàn các cấp, biểu hiện rõ nét của mối quan hệ trong cơ chế ba bên. Sự tham gia này của tổ chức công đoàn đảm bảo ngay từ chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước nói chung (được quy định tại Điều 4 Luật công đoàn năm 1990, Điều 156 BLLĐ sửa đổi, bổ sung), doanh nghiệp nói riêng được xây dựng, ban hành đã thể hiện mối quan hệ hợp tác, sự tôn trọng của các đối tác với tổ chức công đoàn, qua đó quyền và lợi ích của NLĐ được thừa nhận và bảo đảm thực hiện. 2. Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động: Đây là một trong những nhóm quyền thể hiện chức năng tham gia vào hoạt động quản lí của tổ chức công đoàn. Vấn đề này đã được quy định tại Điều 12, khoản 3 Điều 181 BLLĐ sửa đổi, bổ sung; và khoản 3 Điều 6, Điều 9 Luật công đoàn năm 1990. Nó bao gồm tất cả các lĩnh vực trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới quan hệ lao động (hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, thời giờ làm việc và nghĩ ngơi, tiền lương, an toàn lao động, về sinh hoạt lao động, bảo hiểm xã hội…). Đối tượng tham gia rộng rãi bao gồm tất cả các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp… có thuê mướn, sử dụng lao động. Hình thức thực hiện cũng đa dạng, công đoàn có thể tự mình tổ chức việc kiểm tra, giám sát (Khoản 3 Điều 6 Luật công đoàn) hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan (Khoản 4 Điều 6 Luật công đoàn; Điều 189 Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung). Pháp luật cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quyền kiểm tra, giám sát của công đoàn được thực hiện (quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 9 Luật công đoàn). 3. Quyền đại diện cho tập thể lao động kí kết thỏa ước lao động tập thể: Theo quy định tại Điều 11 Luật công đoàn; Điều 44, Điều 45, Điều 52 BLLĐ; Nghị định của Chính phủ số 196/CP ngày 31/12/1994 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về thỏa ước lao động tập thể; Nghị định của Chính phủ số 93/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị đình 196/CP thì đại diện thương lượng, kí kết thỏa ước lao động tập thể là tổ chức công đoàn cơ sở. Sự quy định này của pháp luật không chỉ khẳng định địa vị pháp lý của công đoàn – tổ chức đại diện lao động mà còn tạo điều kiện để công đoàn thực hiện được chức năng quan trọng nhất là bảo vệ NLĐ. Thỏa ước lao động tập thể khi được xác lập thực hiện với sự tham gia của công đoàn là căn cứ pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ, đồng thời thể hiện mối quan hệ hợp tác tôn trọng nhau trong điều kiện đảm bảo sự hài hòa, ổn định trong quan hệ lao động. 4. Quyền tham gia xây dựng nội quy (quy chế lao động), xử lí kỉ luật lao động, trách nhiệm vật chất và chấm dứt hợp đồng lao động: Nội quy lao động là tiêu chí để NLĐ xác định Việc tham gia của công đoàn vào quá trình xây dựng nội quy lao động không chỉ là sự đảm bảo cho tính hợp lý và đúng đắn của các quy định nội bộ trong doanh nghiệp mà còn bảo đảm cho tính khả thi cũng như hiệu quả của quá trình quản lý lao động. Khi NLĐ vi phạm kỷ luật việc áp dụng hình thức kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất là quyền của người sử dụng lao động, nó là hậu quả pháp lý bất lợi cho NLĐ cả về việc làm, thu nhập, nhân phẩm do vậy việc quy định có sự tham gia của đại diện ban chấp hành công đoàn là hợp lý (Khoản 3 Điều 87, Điều 91 BLLĐ). Chấm dứt HĐLĐ là một điều khá phổ biến trong quan hệ lao động, tuy nhiên khi NSDLĐ chấm dứt HĐLĐ với NLĐ thì cần phải có sự thống nhất với ban chấp hành công đoàn cơ sở trước khi chấm dứt (Điều 17, 31, 38 Bộ luật lao động; Nghị định của Chính phủ số 44/2003/N Đ-CP ngày 9/5/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về HĐLĐ). 5. Quyền tổ chức và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động: Đây được coi vừa là quyền vừa là trách nhiệm của Công đoàn phù hợp với các quy định tại Điều 8 Luật Công đoàn cũng như nhiều văn bản pháp luật khác. Việc chăm lo đời sống NLĐ bao gồm từ khi tham gia hoạch định các chính sách, chế độ liên quan đến cải thiện các điều kiện lao động sinh hoạt cho NLĐ, từ việc đảm bảo các lợi ích vật chất cho NLĐ trong quan hệ lao động (tiền lương, tiền thưởng…) đến việc phối hợp với NSDLĐ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho NLĐ. 6. Quyền đại diện và tham gia trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp lao động và các cuộc đình công: Tư cách này được thể hiện trong những khía cạnh sau đây: Thứ nhất: Quyền tổ chức đối thoại giữa lao động tập thể với người sử dụng lao động. Xuất phát từ các quan hệ lao động, giữa lao động tập thể và người sử dụng lao động có thể xuất hiện các mâu thuẫn do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu không giải quyết kịp thời sẽ dẫn tới những xung đột do vậy Công đoàn “….Khi cần thiết Công đoàn tổ chức đối thoại giữa tập thể lao động với thủ trưởng các cơ quan đơn vị, tổ chức hữu quan để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động.” (Điều 10 Luật công đoàn 1990) Thứ hai: Quyền tham gia giải quyết tranh chấp lao động. Trong trường hợp không thương lượng được, Công đoàn tham gia giải quyết tranh chấp ở Hội đồng hòa giải lao động cơ sở. Sự tham gia của Công đoàn ở đây được hiểu là sự tham gia với tư cách là một chủ thể, một thành viên độc lập trực tiếp giải quyết tranh chấp lao động. Về nguyên tắc, tất cả các cơ quan, tổ chức này khi giải quyết tranh chấp lao động phải có sự tham gia của Công đoàn với tư cách là một thành viên có địa vị pháp lý như các thành viên khác trong hội đồng giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên ở Việt Nam thì điều này mới được quy định với hội đồng hòa giải lao động cơ sở và hội đồng trọng tài lao động (Điều 162, 164 BLLĐ sửa đổi, bổ sung). Riêng với tòa án nhân dân, nguyên tắc này chưa được áp dụng. Thứ ba: Quyền tổ chức và lãnh đạo đình công. Theo quy định tại Điều 172a Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung thì nói chung việc đình công do Ban chấp hành công đoàn tổ chức và lãnh đạo (chỉ những nơi chưa có một tổ chức công đoàn thì tập thể lao động cử đại diện tổ chức lãnh đạo). Quy định này một mặt khẳng định tính đại diện duy nhất của Công đoàn trong lãnh đạo đình công, mặt khác cũng xác định trách nhiệm của Công đoàn nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các cuộc đình công (Điều 173, 174, 174a, 174b, 174c BLLĐ sửa đổi, bổ sung). Thứ tư: Quyền khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động. Công đoàn có thể thực hiện quyền này với tư cách là chủ thể độc lập hoặc với tư cách người đại diện. Thông thường quyền khởi kiện để bảo vệ tập thể lao động do Công đoàn cơ sở thực hiện, tuy nhiên, “Công đoàn cấp trên của Công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định (khoản 2 Điều 162 BLTTDS 2004). Như vậy, là tổ chức xã hội song công đoàn lại có địa vị pháp lý đặc biệt khi tham gia quan hệ: Là người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. NHỮNG TỪ VIẾT TẮT NLĐ: Người lao động. NSDLĐ: Người sử dụng lao động. BLLĐ: Bộ luật lao động. HĐLĐ: Hợp đồng lao động. BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Giáo trình Luật lao động, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Năm 2009. 2, 3, Vai trò của công đoàn trong cơ chế ba bên và trong việc giải quyết tranh chấp lao động, Nguyễn Hữu Chí, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2001
Luận văn liên quan